0983 019 109

Văn phòng luật sư uy tín tại Việt Nam.

Luật sư tham gia vụ án khởi kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai tỉnh Thái Bình

Xác định thiệt hại trong lĩnh vực đất đai thường xuyên xảy ra, đặc biệt là các quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền.

BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA

Lê Thị Thúy Hằng – Luật sư Cty Luật TNHH Dragon thuộc Đoàn Luật Sư thành phố Hà Nội. Nhận được lời mời của ông Nguyễn Gia Loãn – Nguyên đơn trong vụ án hành chính sơ thẩm về việc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính và được sự chấp thuận của Tòa án ND cấp cao tại Hà Nội, tham gia phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Gia Loãn.

  1. YÊU CẦU KHỞI KIỆN:

Trước khi đưa ra căn cứ pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của tôi là ông Nguyễn Gia Loãn tôi xin tóm tắt lại yêu cầu khởi kiện của ông Loãn như sau:

1.Khởi kiện các quyết định hành chính:

– Quyết định số 12/QĐ-KPHQ ngày 31 tháng 01 năm 2018 của Chủ tịch UBND xã Liên Giang về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả;

– Quyết định hành chính số 212/QĐ-UBND ngày 23/01/2019 của Chủ tịch UBND huyện Đông Hưng giải quyết khiếu nại (lần 2) đối với Quyết định số QĐ-KPHQ ngày 31 tháng 01 năm 2018 của Chủ tịch UBND xã Liên Giang;

– Quyết định số 26/QĐ-CC ngày 13/03/2018 của Chủ tịch UBND xã Liên Giang về việc cưỡng chế thi hành Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 12/QĐ-KPHQ ngày 31/01/2018 thì Chủ tịch UBND xã Liên Giang;

– Quyết định số 37/QĐ-UBND ngày 29/03/2018 về việc giải quyết đơn khiếu nại (lần 1) của công dân Nguyễn Gia Loãn đối với Quyết định cưỡng chế số 26/QĐ-CC ngày 13/03/2018

  1. Yêu cầu Chủ tịch UBND xã Liên Giang bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi cưỡng chế phá dỡ công trình kiến trúc của gia đình ông Loãn với tổng thiệt hại theo ước tính là 41.600.000đ.
  2. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ:

Để chứng minh cho các yêu cầu trên của ông Loãn là hợp pháp, Luật sư đưa ra quan điểm pháp lý như sau:

  1. Thứ nhất: Xét về nguồn gốc sử dụng đất.

– Theo Bản xác nhận số 11/XN-VPĐKĐĐ ngày 22/09/2018 về việc cung cấp thông tin dữ liệu đất đai của Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Bình thì hiện gia đình ông Loãn đang quản lý sử dụng diện tích 281,7m2 đất tại thửa số 212, tờ bản đồ 09, đo đạc năm 2006 trong đó có 180m2 đất ở (ONT) và 101,7m2 là đất trồng cây lâu năm (LNK). Trên thực tế gia đình ông Loãn cũng đang quản lý sử dụng diện tích trên đúng theo Bản xác nhận của Sở Tài nguyên và Môi trường.

– Về nguồn gốc thửa đất:

+ Đối với diện tích 180m2 đất ở (ONT): Giai đoạn 1986 đến trước 1993 thực hiện chính sách giãn dân của Đảng và Chính phủ, gia đình ông Loãn đông anh em trai nên được cấp thêm một suất đất tại Kho Chùa, xã Liên Giang ngoài suất chính cấp cho bố mẹ ông Loãn. Tuy nhiên để được gần bác ruột (anh trai bố ông Loãn) là ông Nguyễn Gia Khanh gia đình ông Loãn đã xin và được UBND xã thời kỳ đó xét duyệt, đồng ý giao cho gia đình ông Loãn 180m2 đất tại Ao Chùa và gia đình ông Loãn sinh sống ổn định, không tranh chấp tại thửa đất trên từ năm 1990. Việc giao đất gia đình ông Loãn không còn lưu giữ được tài liệu nhưng đây cũng là tình trạng chung tại thôn Kim Ngọc, xã Liên Giang được những người dân địa phương ở đây xác nhận.

+ Đối với diện tích 101,7m2 đất trồng cây lâu năm (LNK): Năm 1989, ông Nguyễn Gia Khanh và bố ông Loãn là ông Nguyễn Gia Quỳnh có góp tiền mua của cụ Trần Vũ Đượm 294m2 đất (có văn bản chuyển nhượng giữa ông Khanh và ông Đượm – do đã thỏa thuận cho ông Khanh đứng tên). Năm 1993, ông Khanh chuyển nhượng cho gia đình ông Loãn 100m2 nhưng do diện tích quá ít nên gia đình ông Loãn chưa đồng ý vì vậy các bên không lập văn bản nhưng trên thực tế gia đình ông Loãn đã tiếp nhận và quản lý, sử dụng diện tích đất này từ đó đến nay. Đến năm 2012, gia đình ông Loãn đồng ý nhận 100m2 và hai bên mới lập văn bản chuyển nhượng. Việc này UBND xã Liên Giang cũng như UBND huyện Đông Hưng đều thừa nhận thời điểm sử dụng diện tích đất này của gia đình ông Loãn là trước năm 2000.

Như vậy, diện tích 281,7m2 đất tại thửa số 212, tờ bản đồ 09, đo đạc năm 2006 là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông Nguyễn Gia Loãn.

– Tuy nhiên, UBND xã Liên Giang cho rằng diện tích gia đình ông Loãn đang sử dụng là đất công ích (5%) do UBND xã quản lý, điều này là vô căn cứ, bởi lẽ:

+ Căn cứ Điều 45 Luật đất đai 1993, Điều 72 Luật đất đai 2003, Điều 132 Luật đất đai 2013 thì quỹ đất công ích là đất nông nghiệp tại địa phương do Hội đồng nhân dân tỉnh (thành phố) quyết định mỗi xã được để lại 5% diện tích đất nông nghiệp làm quỹ đất công ích. Tuy nhiên chính quyền địa phương xã Liên Giang không cung cấp được tài liệu xác định tổng 5% đất công ích của địa phương là bao nhiêu m2 và tại khu vực nào. Vì có một thực tế đang xảy ra tại Liên Giang là đâu đâu cũng là đất công ích, phần diện tích mà người dân chúng tôi khổ cực khai hoang, phục hóa, hi sinh cả mồ hôi, nước mắt và máu, gắn bó với thửa đất gần 30 năm … cũng chỉ cần qua vài lần “xem xét” của chính quyền địa phương là trở thành đất công ích, là “lấn chiếm”, là “sử dụng sai quy định”.

+ Búc xúc hơn nữa là thực trạng quản lý đất tại xã Liên Giang là quá sơ sài, ngoài bản đồ 299 lập giai đoạn 1980 – 1985 thì đến tận năm 2006 mới có bản đồ địa chính. Sổ mục kê, sổ địa chính, sổ theo dõi biến động… đều không có trong suốt giai đoạn từ sau khi lập bản đồ 299 đến khi thực hiện Quyết định 948/2000 của UBND tỉnh Thái Bình. Với hơn một thập kỷ (gần 15 năm) không hề có hồ sơ địa chính, vậy tôi không hiểu chính quyền xã Liên Giang, huyện Đông Hưng và cả Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình tại sao vẫn cho rằng có căn cứ để xác định đất đó là đất công ích do UBND xã Liên Giang quản lý trong khi bản thân ông Loãn là người quản lý, sử dụng trực tiếp diện tích đất đó? Trong suốt quá trình sử dụng ổn định, không tranh chấp, không bị xử lý vi phạm hành chính về đất đai.

Người dân không có quyết định giao đất thì là sai, bị phủi sạch quá trình sử dụng và công sức đóng góp hơn 30 năm trên đất nhưng chính quyền không có hồ sơ quản lý đất đai thì cũng vẫn là có căn cứ, có cơ sở để xác định các quyết định ban hành là đúng đắn. Vậy tôi không hiểu quyền lợi của những người dân “thấp cổ, bé họng” như có được xem xét một cách khách quan, công tâm?

  1. Thứ hai: Quá trình sử dụng đất.

– Trong gần 30 năm quản lý và sử dụng đất (từ khoảng năm 1990 đến năm 1993) gia đình ông Loãn không bị xử lý vi phạm hành chính, vẫn ở và xây dựng nhà cửa kiên cố, sử dụng đất một cách công khai, minh bạch. Năm 2006 việc sử đụng đất đã được thể hiện trong bản đồ địa chính của địa phương. Ngay chính trong các quyết định giải quyết khiếu nại của UBND xã, UBND huyện cũng xác định nếu thực sự có hành vi chiếm đất thì cũng phải trong khoảng từ 2000-2006.

– Giả sử việc sử dụng đất của gia đình ông Loãn là chưa đúng theo quy định pháp luật thì căn cứ Khoản 3, Khoản 5 Điều 22 Nghị định số 43/2014 về xử lý đất sử dụng có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 1/7/2014 được hiểu:

+ Khoản 3 Điều 22: Nếu có quy hoạch theo quy định tại Điều 61, Điều 62 Luật đất đai thì sẽ bị thu hồi, chưa thu hồi thì được tạm sử dụng và giữ nguyên hiện trạng. Điều này đồng nghĩa nếu thực sự có vi phạm pháp luật về đất, có quy hoạch thì quy trình thực hiện vẫn phải qua bước thu hồi, bồi thường rồi mới tiến hành cưỡng chế nhận bàn giao mặt bằng thực hiện dự án có quy hoạch. Nếu không có quy hoạch thì được rà soát, xem xét điều chỉnh để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

+ Khoản 5 Điều 22: Nếu thửa đất có công trình xây dựng không phải nhà ở (cụ thể là lán, mái che lợp proximang, sân nền, tường bao…) nhưng đã xây dựng và sử dụng từ trước ngày 1/7/2014 phù hợp với quy hoạch hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng sử dụng từ trước thời điểm có quy hoạch thì vẫn được công nhận quyền sử dụng đất theo mục đích sử dụng.

– Như đã phân tích ở trên kể cả trong trường hợp gia đình ông Loãn có vi phạm pháp luật về đất đai thì khi có quy hoạch vẫn phải theo trình tự thu hồi, nếu xét về khía cạnh này thì việc ban hành các quyết định hành chính trên của UBND xã Liên Giang, UBND huyện Đông Hưng có sai phạm một số nội dung sau:

+ Thẩm quyền thu hồi đất công ích: Khoản 1 Điều 66 Luật đất đai thì thẩm quyền thuộc về UBND tỉnh Thái Bình. Trên thực tế còn không có quy trình thu hồi bồi thường nên được xem là sai phạm chồng sai phạm.

+ Về điều kiện để thu hồi đất: Phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Căn cứ điều 36 Luật đất đai, Khoản 1 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch 2018 thì không có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã mà chỉ có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện. Trong hồ sơ vụ án tôi cũng không thấy có quy hoạch, kế hoạch đất cấp huyện đã được phê duyệt liên quan đến việc làm đường vào khu dân cư Ao Lớn. Ngay trong Quyết định giải quyết khiếu nại số 24 của UBND xã Liên Giang cũng khẳng định việc  lấy đất của gia đình ông Loãn làm đường là thực hiện đơn kiến nghị của nhân dân khu Ao Lớn, UBND xã xét thấy phù hợp, đã được Đảng ủy và HĐND xã tại kỳ họp thứ 10 thông qua. Hoàn toàn không nhắc đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt bởi cấp có thẩm quyền.

  1. Thứ ba: Vi phạm thời gian giải quyết khiếu nại.

Chủ tịch UBND huyện Đông Hưng đã vi phạm nghiêm trọng về thời hạn giải quyết khiếu nại lần 2 theo quy định tại Điều 37 Luật Khiếu nại năm 2011, cụ thể:

“Điều 37. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai

Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý.

Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 ngày, kể từ ngày thụ lý.”

Đơn khiếu nại lần 2 của ông Loãn là ngày 30/03/2018 nhưng phải đến ngày 23/01/2019 (khoảng 10 tháng) thì Chủ tịch UBND huyện Đông Hưng mới ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần 2. Việc chậm trễ giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện Đông Hưng khiến việc giải quyết bị kéo dài, làm nghiêm trọng thêm tình trạng thiệt hại của gia đình ông Loãn.

  1. Thứ tư: Thẩm quyền ban hành Quyết định Cưỡng chế.

Ngày 31/01/2018 Chủ tịch UBND xã Liên Giang đã ban hành Quyết định số 12/QĐ-KPHQ (sau đây gọi là Quyết định số 12) về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi của tôi được cho là hành vi “lấn chiếm đất ao của UBND xã” theo quy định tại khoản 1, điều 10, Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Tại khoản 5, Điều 1 của Quyết định số 12 thể hiện:

“5. Biện pháp khắc phục hậu quả phải thực hiện, gồm:

Yêu cầu ông Nguyễn Gia Loãn tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng, cây trồng trái phép trên diện tích đất lấn chiếm, trả lại diện tích và mặt bằng của đất cho UBND xã để quy hoạch giao thông trong khu dân cư”.

Căn cứ vào Quyết định số 12 nêu trên, ngày 13/03/2019 Chủ tịch UBND xã Liên Giang tiếp tục ban hành Quyết định số 26/QĐ-CC (sau đây gọi là Quyết định số 26)  về việc cưỡng chế thi hành Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 12. Khoản 4 Điều 1 của Quyết định số 26 thể hiện:

“4. Biện pháp khắc phục hậu quả phải thực hiện, gồm:

Tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng, cây trồng trái phép trên diện tích đất lấn chiếm, trả lại diện tích và mặt bằng của đất cho UBND xã để quy hoạch giao thông trong khu dân cư”.

Từ những nội dung trên, đối chiếu với quy định tại Điều 31 Nghị định 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai nhận thấy: Thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phụ hậu quả “buộc trả lại đất đã lấn, chiếm” thuộc về Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Như vậy việc Chủ tịch UBND xã Liên Giang ban hành Quyết định cưỡng chế số 26 tôi với gia đình ông Loãn là hoàn toàn trái thẩm quyền .

  1. Thứ năm: Về yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Từ những phân tích trên nhận thấy việc Chủ tịch UBND xã Liên Giang ban hành Quyết định cưỡng chế số 26 đối với ông Loãn là hoàn toàn trái thẩm quyền, vi phạm các quy định pháp luật.

Theo đó tất cả những tài sản (bao gồm tường bao, công trình xây dựng, sân lán bê tông, cây trồng….) mà gia đình ông Loãn bị thiệt hại từ việc cưỡng chế kính đề nghị Quý Tòa xem xét, chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của gia đình ông Loãn.

Kính thưa HĐXX,

Quá trình sử dụng đất, gắn bó với đát gần 30 năm là tâm huyết, mồ hôi công sức của gia đình ông Loãn bỏ ra để tôn tạo, đầu tư làm tăng giá trị đất lên hàng trăm lần. Đến nay bị xác định là đất lấn chiếm, bị cưỡng chế, tháo dỡ….Nếu đặt trở lại vào địa vị gia đình ông Loãn, chắc chắn chúng ta đều sẽ thấy rất xót xa cho sự việc xảy ra với gia đình ông Loãn.

Với tất cả những căn cứ pháp lý trên, bằng cả cái tình trong pháp luật, Luật sư kính đề nghị HĐXX xem xét khách quan, toàn diện sự việc và tôi tin tưởng vào sự công tâm của Hội đồng xét xử cũng như vị đại diện VKS giữ quyền công tố tại phiên tòa ngày hôm nay.

Trân trọng cảm ơn!

Công ty luật Dragon

Thuê dịch vụ luật sư chuyên hành chính đất đai vui lòng liên hệ 1900.599.979 / 098.301.9109