0983 019 109

Văn phòng luật sư uy tín tại Việt Nam.

Điều 370 Bộ luật Hình sự quy định về tội ra bản án trái pháp luật

Chi tiết Điều 370 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017

Điều 370 Bộ luật Hình sự quy định về tội ra bản án trái pháp luật

Chi tiết Điều 370 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017

Điều 370. Tội ra bản án trái pháp luật

  1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
    a) Phạm tội 02 lần trở lên;
    b) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
    c) Kết án oan người vô tội về tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng;
    d) Bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng; người phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng;
    đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
    e) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
    g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
  3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
    a) Kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
    b) Bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
    c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
    d) Dẫn đến bị cáo, người bị hại, đương sự tự sát;
    đ) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.”.

Phân tích 4 yếu tố cấu thành tội phạm:

–           Chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt và đặc biệt hơn nữa là chỉ có Thẩm phán hoặc Hội thẩm  (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân dân) mới có thể là chủ thể của tội phạm này.

Điều luật quy định chỉ có Thẩm phán nhưng không vì thể mà cho rằng đối với các chức vụ như: Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa không phải là chủ thể của tội phạm này, vì họ cũng là Thẩm phán và họ chỉ là chủ thể khi họ được giao xét xử vụ án cụ thể.

–           Mặt chủ quan của tội phạm:

Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp).

–           Khách thể của tội phạm:

Tội phạm này xâm phạm đến uy tín của Tòa án, thông qua việc xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân

–           Mặt khách quan của tội phạm:

+ Hành vi:

Mặt khách quan của tội ra bản án trái pháp luật được thể hiện ở hành vi của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử kí vào bản án và ban hành bản án đó khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, lao động, kinh tế mà mình biết rõ là bản án đó trái pháp luật.

Bản án bị coi là trái pháp luật khi thuộc các trường hợp sau:

* Về hình thức: Có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng như thành phần Hội đồng không đúng, xét xử sai thẩm quyền, không điều tra xác minh theo quy định nhằm làm rõ các chứng cứ.

* Về nội dung: Áp dụng không đúng pháp luật để giải quyết (áp dụng sai điều luật), hoặc xác định không đúng quan hệ pháp luật dẫn đến kết quả giải quyết sai… Tuy nhiên đối với vụ án hình sự thì cần phân biệt với trường hợp phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội hoặc không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội ở chỗ: Việc xét xử đối với bị cáo là đúng thủ tục và bị cáo là người đã thực hiện hành vi phạm tội, nhưng Hội đồng xét xử lại xử sai về tội danh và áp dụng không đúng điều luật khi giải quyết vụ án đó mà biết rõ là việc ra bản án đó là trái pháp luật.

+ Hậu quả:

Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả xảy ra thì tùy từng trường hợp, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật.

Văn bản hướng dẫn:

Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự

Chương 8:

CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP

2) Tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật (Điều 232)

– Đó là hành vi ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật về hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình và lao động trong các giai đoạn tố tụng về sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, thi hành án. Tính chất trái pháp luật được thể hiện ở nội dung bản án, hoặc quyết định (như: kết án người rõ ràng không có tội; tuyên không có tội đối với người rõ ràng có tội, truất quyền thừa kế, quyền sở hữu của công dân không có căn cứ hợp pháp; đình chỉ tố tụng không có căn cứ v.v…) Bản án hoặc quyết định có thể sai toàn bộ hoặc sai một phần sai này rõ ràng trái pháp luật.

– Hành vi đó là cố ý, tức là biết rõ là sai mà vẫn làm. Động cơ cá nhân (nếu có) chỉ có ý nghĩa về lượng hình. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm tuyên án hoặc tống đạt quyết định trái pháp nói trên.

– Nếu do thiếu trách nhiệm (cẩu thả hoặc quá tự tin) mà bản án quyết định trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị xử lý theo Điều 220; nếu không có hậu quả nghiêm trọng, thì có thể bị xử lý hành chính.

– Chủ thể của tội phạm này là thẩm phán, hội thẩm nhân dân, tức là người có thẩm quyền ra bản án hoặc quyết định đối với bị cáo hoặc đương sự.

Theo nguyên tắc, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán, do đó, mỗi thành viên trong Hội đồng xét xử đều có trách nhiệm hình sự khi cố ý ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật. Nhưng qua thực tiễn, cần xem xét sự việc cụ thể và thái độ của từng thành viên trong Hội đồng xét xử khi biểu quyết để xác định trách nhiệm cụ thể của từng người (như: đối với một bản án hoặc quyết định được cố ý ra trái pháp luật được biểu quyết theo đa số, một thành viên của Hội đồng xét xử đã biểu quyết ngược lại, thì không thể bị xử lý về tội này).

Theo nguyên tắc “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” Hội đồng xét xử trong mọi trường hợp đều phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc xét xử vụ án. Khi cần thiết hoặc khi Tòa án cấp dưới hỏi, Tòa án cấp trên có thể cho những ý kiếnchỉ đạo, hướng dẫn về việc áp dụng pháp luật, nhưng không đề ra mức xử lý cụ thể, và không có tính chầt ra mệnh lệnh. Do đó, nếu các thành viên của Hội đồng xét xử, theo sự hướng dẫn của cấp trên, ra bản án hoặc quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật vẫn bị xử lý theo Điều 232. Cấp trên hướng dẫn Hội đồng xét xử ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật có thể bị xử lý hành chính; nếu cho ý kiến có tính chất cố ý ép buộc Hội đồng xét xử ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật thì cũng bị xử lý về tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật (Điều 232).

– Hậu quả nghiêm trọng quy định ở Điều 232, khoản 2 thể hiện như: kẻ phạm tội nghiêm trọng đã trốn sau khi bản án tha sai; người bị kết án oan đã bị giam lâu ngày, tự sát, bị tan nát gia đình, bị kiệt quệ về kinh tế.

====================================================

Công ty luật Dragon chuyên tư vấn pháp luật Hình sự trực tuyến online – 1900 599 979

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh văn phòng luật sư Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư tham khảo tại đây

Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long