CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
A. Các nguyên tắc chính trị-xã hội.
Quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động có mục
đích. Những mục đích, mục tiêu cơ bản định ra trước cho
hoạt động quản lý và kết quả của việc đạt được mục đích,
mục tiêu đó phản ánh hiệu quả của việc quản lý. Hiệu quả
của quản lý vì vậy phải được tiến hành trên cơ sở những
nguyên tắc nhất định. Ðặc biệt, khi Luật hành chính thực định
vẫn còn chưa được tập trung- chỉ là tập hợp các văn bản
về quản lý nhà nước, tồn tại dưới nhiều hình thức văn
bản pháp lý không cao, thì nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước
là một đòi hỏi bức thiết và sự tuân thủ hệ thống các nguyên
tắc càng đòi hỏi chặt chẽ.
I. KHÁI NIỆM VÀ HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1.
Khái niệm |
a)
Thế nào là nguyên tắc?
Nguyên
tắc trước hết được hiểu là "Ðiều cơ bản định ra,
nhất thiết phái tuân theo trong một loạt việc làm"[1].
Trong quản lý hành chính nhà nước, các nguyên tắc cơ bản là
những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của
hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định
trong pháp luật làm nền tảng cho hoạt động quản lý hành chính
nhà nước.
Dưới
góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong quản lý hành chính
nhà nước là tổng thể những quy phạm pháp luật hành chính có
nội dung đề cập tới những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để
tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Mỗi nguyên tắc quản lý đều có những hình thức biểu hiện khác
nhau.
b)
Ðược qui định ở đâu?
Các
nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung và những nguyên tắc
quản lý hành chính nhà nước nói riêng đã được quy định trong
pháp luật như quy định trong hiến pháp, luật, văn bản dưới
luật. Những nguyên tắc được quy định trong hiến pháp được
xem là nguyên tắc cơ bản nhất.
c)
Ðặc điểm
1.
Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính chất khách
quan bởi vì chúng được xây dựng, đúc kết từ thực tế cuộc
sống và phản ánh các quy luật phát triển khách quan. Tuy nhiên, các
nguyên tắc trên cũng mang yếu tố chủ quan bởi vì chúng được xây
dựng bởi con người mà con người dựa trên những nhận thức
chủ quan để xây dựng.
2.
Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có tính ổn định
cao nhưng không phải là nguyên tắc bất di bất dịch. Nó gắn
liền với quá trình phát triển của xã hội, tích lũy kinh
nghiệm, thành quả của khoa học về quản lý hành chính nhà nước.
3.
Tính độc lập tương đối với chính trị. Hệ thống chính trị
của nhà nước Việt nam được thực hiện thông qua: các tổ
chức chính trị xã hội (Ðảng, Mặt trận tổ quốc...), và bộ máy
nhà nước (Lập pháp, hành pháp, tư pháp). Trong hệ thống nguyên
tắc quản lý hành chính nhà nước có cả những nguyên tắc riêng,
đặc thù trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên
giữa hoạt động chính trị và quản lý nhà nước có mối quan
hệ hữu cơ chặt chẽ. Các quan điểm chính trị là cơ sở của
việc tổ chức hoạt động quản lý hành chính nhà nước và
hoạt động quản lý hành chính nhà nước thực hiện tốt không
chỉ đòi hỏi được trên pháp luật (luật), mà còn phải thực
hiện đúng đắn các quan điểm chính trị (chính sách).
4.
Mỗi nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có nội dung riêng,
phản ánh những khía cạnh khác nhau của quản lý hành chính nhà nước.
Tuy nhiên, những nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau tạo thành một thể thống nhất. Việc thực hiện tốt nguyên
tắc này sẽ tạo tiền đề cho việc thực
hiện có hiệu quả nguyên tắc khác. Vì thế nên các nguyên tắc
quản lý hành chính nhà nước luôn thể hiện tính hệ
thống, tính thống nhất và đây là một thuộc tính vốn có của
chúng.
2.
Hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước |
Các
nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có nội dung đa
dạng, có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì
thế cần phải xác định được chúng gồm những nguyên tắc cơ
bản nào, cần phải phân loại chúng một cách khoa học để xác
định được vị trí, vai trò của từng nguyên tắc trong quản lý
hành chính nhà nước, từ đó xây dựng và áp dụng hệ thống các
nguyên tắc một cách có hiệu quả vào thực tiễn quản lý hành
chính nhà nước.
Hoạt
động quản lý hành chính nhà nước được biểu hiện cụ thể
trong hoạt động tổ chức, nó bao gồm hai mặt: tổ chức chính
trị và tổ chức kỹ thuật. Dựa trên những cơ sở khoa học về
quản lý nhà nước ta chia các nguyên tắc trong
quản lý hành chính nhà nước thành hai nhóm là nhóm những nguyên
tắc chính trị-xã hội và nhóm những nguyên tắc tổ chức
kỹ thuật. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương
đối vì yếu tố tổ chức kỹ thuật và chính trị trong quản lý
hành chính nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ nhau. Việc thực
hiện các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật là để thực hiện một
cách đúng đắn các nguyên tắc chính trị-xã hội và việc thực
các nguyên tắc chính trị - xã hội là cơ sở để thực hiện các
nguyên tắc tổ chức kỹ thuật.
Hệ
thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bao gồm:
Nhóm
những nguyên tắc chính trị-xã hội
1.
Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước;
2.
Nguyên tắc nhân dân tham gia vào quản lý hành chính nhà nước;
3.
Nguyên tắc tập trung dân chủ;
4.
Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc;
5.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;
Nhóm
những nguyên tắc tổ chức kỹ thuật
6.
Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh
thổ;
7.
Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo
chức năng.
8.
Phân định chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với
quản lý sản xuất kinh doanh.
II. CÁC NGUYÊN
TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
A.
Các
nguyên tắc chính trị-xã hội
1. Nguyên
tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước |
a)
Cơ sở pháp lý
Ðiều
4-Hiến pháp 1992 quy định: Ðảng cộng sản Việt Nam-đội ngũ tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
b)
Nội dung nguyên tắc
Thực
tế lịch sử đã chỉ rõ, sự lãnh đạo của Ðảng là hạt nhân
của mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bằng những hình
thức và phương pháp lãnh đạo của mình, Ðảng cộng sản giữ
vai trò quyết định đối với việc xác định phương hướng
hoạt động của nhà nước trên mọi lĩnh vực; sự lãnh đạo
của Ðảng đối với nhà nước mang tính toàn diện về chính
trị, kinh tế, văn hóa xã hội...Sự lãnh đạo đó chính là việc
định hướng về mặt tư tưởng, xác định đường lối, quan điểm
giai cấp, phương châm, chính sách, công tác tổ chức trên lĩnh
vực chuyên môn.
Nguyên
tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước biểu
hiện cụ thể ở các hình thức hoạt động của các tổ chức Ðảng:
1.
Trước
hết, Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước bằng
việc đưa ra đường lối, chủ trương, chính sách của mình về các
lĩnh vực hoạt động khác nhau của quản lý hành chính nhà nước.
Trên cơ sở đường lối chủ
trương, chính sách của Ðảng. Các chủ thể quản lý hành chính
nhà nước xem xét và đưa ra các quy định quản lý của mình để
từ đó đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng sẽ được
thực hiện hóa trong quản lý hành chính nhà nước. Trên thực
tế, đường lối cải cách hành chính nhà nước được đề ra
trong nghi quyết đại hội đại biểu Ðảng cộng sản Việt nam
lần thứ VI và thứ VII và trong Nghị quyết trung ương khoá VIII
về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt nam, mà trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính
quốc gia là kim chỉ nam cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
2.
Ðảng
lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong công
tác tổ chức cán bộ. Các tổ chức Ðảng đã bồi dưỡng, đào
tạo những Ðảng viên ưu tú, có phẩm chất và năng lực gánh vác
những công việc trong bộ máy hành
chính nhà nước, đưa ra các ý kiến về việc bố trí những cán
bộ phụ trách vào những vị trí lãnh đạo của các cơ quan hành
chính nhà nước. Tuy nhiên vấn đề bầu, bổ nhiệm được thực
hiện bởi các cơ quan nhà nước theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định, ý kiến của tổ chức Ðảng là cơ sở để cơ
quan xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng.
3.
Ðảng
lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước thông qua công tác
kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước. Thông qua kiểm tra
xác định tính hiệu quả, tính
thực tế của các chủ trương chính sách mà Ðảng đề ra từ đó
khắc phục khiếm khuyết, phát huy những mặt tích cực trong công
tác lãnh đạo.
4.
Sự
lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước còn được
thực hiện thông qua uy tín và vai trò gương mẫu của các tổ
chức Ðảng và của từng Ðảng viên. Ðây là cơ sở nâng cao uy tín
của Ðảng đối với dân, với cơ quan nhà nước.
5.
Ðảng
chính là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân. Sự lãnh đạo
của Ðảng là cơ sở
bảo đảm sự phối hợp của các cơ quan nhà nước và tổ chức
xã hội, lôi cuốn nhân dân lao động tham gia thực hiện các
nhiệm vụ quản lý nhà nước ở tất cả các cấp quản lý.
6.
Ðây là nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước,
cần được vận dụng một cách
khoa học và sáng tạo cơ chế Ðảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ trong quản lý hành chính nhà nước, tránh khuynh
hướng tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của Ðảng cũng như
khuynh hướng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Ðảng trong quản
lý hành chính nhà nước. Vì vậy, đường lối, chính sách của Ðảng
không được dùng thay cho luật hành chính, Ðảng không nên và không
thể làm thay cho cơ quan hành chính nhà nước. Các nghị quyết
của Ðảng không mang tính quyền lực- pháp lý. Tuy nhiên, để
bảo đảm hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước không thể tách
rời sự lãnh đạo của Ðảng.
a)
Cơ
sở pháp lý
Ðiều
2 - Hiến pháp 1992 nêu rõ: Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt
nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
b)
Nội dung nguyên tắc
Việc
tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lý hành chính
nhà nước thông qua các hình thức trực tiếp và gián tiếp tương
ứng như sau:
1.
Tham gia gián tiếp:
* Tham
gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước
Các
cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền
lực nhà nước, việc nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ
quan nhà nước là hình thức tham gia tích cực, trực tiếp và có
hiệu quả nhất trong quản lý hành chính nhà nước. Người lao động
nếu đáp ứng các yêu cầu của pháp luật đều có thể tham gia
một cách trực tiếp hay gián tiếp vào công việc quản lý hành chính
nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
-
Người lao động có thể tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền
lực nhà nước với tư cách là thành viên của cơ quan này - họ là
những đại biểu được lựa chọn thông qua bầu cử hoặc với tư
cách là các viên chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước. Khi
ở cương vị là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước, người
lãnh đạo trực tiếp xem xét và quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước, của từng địa phương trong đó có các
vấn đề quản lý hành chính nhà nước. Khi ở cương vị là cán
bộ viên chức nhà nước thì người lao động sẽ sử dụng
quyền lực nhà nước một cách trực tiếp để thực hiện vai trò
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, có điều kiện
biến những ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện thực nhằm
xây dựng đất nước giàu mạnh.
-
Ngoài ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động
của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa
chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan
quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Ðây là hình
thức tham gia rộng rãi nhất của nhân dân vào hoạt động quản lý
hành chính nhà nước.
* Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
-
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động
tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Các
tổ chức xã hội là công cụ đắc lực của nhân dân lao động
trong việc thực hiện quyền tham gia vào quản lý hành chính nhà nước.
Thông qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ
động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy. Ðây là
một hình thức hoạt động có ý nghĩa đối với việc bảo đảm
dân chủ và mở rộng nền dân chủ ở nước ta.
2.
Tham gia trực tiếp
* Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở
-
Ðây là hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực hiện, các
hoạt động này gần gủi và thiết thực đối với cuộc sống
của người dân như hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, vệ
sinh môi trường,...Những hoạt động này xảy ra ở nơi cư trú, làm
việc, sinh hoạt nên mang tính chất tự quản của nhân dân.
-
Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản này người
lao động là những chủ thể tham gia tích cực nhất, quyền tham
gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của họ được tôn
trọng và bảo đảm thực hiện.
*
Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong
quản lý hành chính nhà nước
-
Ðiều 53-Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung
của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội hay chính người dân trực tiếp thực hiện.
-
Kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước.
-
Tham gia trực tiếp với tư cách là thanh viên không chuyên trách
trong hoạt động cơ quan quản lý, các cơ quan xã hội.
-
Tham gia với tư cách là thành viên của tập thể lao động trong
việc giải quyết những vấn đề quan trọng của cơ quan...
Việc
trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong
quản lý hành chính nhà nước là một hình thức có ý nghĩa quan
trọng để nhân dân lao động phát
huy vai trò làm chủ của mình.
Ðây
là nguyên tắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực
hiện. Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân chủ sâu sắc giữ
vai trò quan trọng thiết yếu trong quản lý hành chính nhà nước.
Nhân dân không chỉ có quyền giám sát đối với hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện khiếu nại tố cáo nếu
cho rắng cán bộ hành chính nhà nước vi phạm quyền lợi của
họ hoặc thực hiện không đúng đắn, mà còn có quyền tự mình
tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trực tiếp thể hiện
quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Ðiều này này
khẳng định vai trò hết sức đặc biệt của nhân dân lao động
trong quản lý hành chính nhà nước, đồng thời xác định những
nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo
những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được tham gia
vào quản lý hành chính nhà nước. Ðiểm thú vị về mặt lý
luận của nguyên tắc vì vậy chỉ có ý nghĩa khi được bảo đảm
thực hiện trên thực tế. Có thể mở rộng, tăng cường quyền
của công dân trong hoạt động quản lý, nhưng không được phép
hạn chế, thu hẹp những gì mà Hiến pháp đã định.
a)
Cơ sở pháp lý
Ðây
là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước
ta nên việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải tuân
theo nguyên tắc này. Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định :Quốc hội,
hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ.
b)
Nội dung nguyên tắc
Nguyên
tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố
tập trung và dân chủ, vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên
cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh
đạo tập trung.
¨
Tuy
nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn diện và tuyệt đối,
mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản
chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ
quan địa phương có cơ sở và khả năng thực
hiện quyết định của trung ương; đồng thời, căn cứ trên điều
kiện thực tế của mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc
giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. Cả hai
yếu tố này vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng
bộ. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau
cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà nước.
¨
Tập
trung dân chủ thể hiện quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và
báo cáo của cơ quan quản lý trước cơ quan dân chủ ; phân định
chức năng, thẩm quyền giữa cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm
sự lãnh đạo tập trung của cấp
trên của trung ương và
quyền chủ động của cấp dưới. Ngoài ra, đó là hệ thống
"song trùng trực thuộc" của nhiều cơ quan
quản lý, bảo đảm sự kết hợp tốt nhất sự lãnh đạo
tập trung theo ngành với quyền quản lý tổng thể của địa phương.
¨
Có
sự phân cấp rành mạch. Quyền lực nhà nước không phải được
ban phát từ cấp
trên xuống cấp dưới. Sự phân quyền cho từng cấp là cần
thiết nhưng phải đồng thời được kết hợp với việc xác định
vai trò của từng cấp hành chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã.
Từ khi ra đời, mỗi cấp đã có "sứ mệnh lịch sử" và
vai trò quản lý hành chính nhà nước riêng, đặc thù. Có những
chức năng được thực hiện ở cấp dưới lại có hiệu quả hơn
cấp trên, hoặc có những chức năng tất yếu phải được thực
hiện ở cấp cơ sở. Hương ước làng xã là một ví dụ. Hương
ước không thể được "lập ra" ở cấp huyện, cấp mà có
thể có rất nhiều làng xã với những tập quán và lối sống khác
nhau. Từ đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện
cụ thể như sau:
-
Sự
phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp.
Ðiều
6-Hiến pháp 1992 quy định : Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông
qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và
chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Như
vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các
cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt mình
trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Ðể thực hiện
chức năng quản lý hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước được thành lập và nó luôn có sự phụ thuộc vào
các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
+
Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định
trong việc thành lập, thay đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà
nước cùng cấp.
+
Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự
chỉ đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách
nhiệm báo cáo hoạt động của mình với cơ quan quyền lực nhà nước
cùng cấp.
Tất
cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí,
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự
tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-cơ quan do dân bầu và
chịu trách nhiệm trước nhân dân.
-
Sự
phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương
đối với trung ương.
Nhờ
có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung
quyền lực nhà nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của
cấp dưới và của địa phương, nếu không có sự phục tùng sẽ
xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô chính
phủ.
+
Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên
cơ sở quy định của pháp luật.
+
Mặt khác, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới,
địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn
đề khác của quản lý hành chính nhà nước.
+
Phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự
chủ động, sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
nhằm chủ động thực hiện được "thẩm quyền cấp mình".
Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí,
làm mất đi tính chủ động sáng tạo của địa phương, cấp dưới.
-
Sự
phân cấp quản lý.
Là
sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy
quản lý hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục
tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để
thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của
cấp mình.
Phân
cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu
sau:
+
Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với
những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược
để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của toàn xã
hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước
trong phạm vi toàn quốc.
+
Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở
để phát huy tính chủ động sáng tạo trong quản lý, tích cực phát
huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời
sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.
+
Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định
của pháp luật. Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều
việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp dưới.
Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại
việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài
cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được
một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới.
-
Sự
hướng về cơ sở
Hướng
về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân
chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn
bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc.
Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi
tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân
dân. Vì thế nhà nước cần có các chính sách quản lý thống
nhất và chặt chẽ, cung cấp và giúp đỡ về vật chất nhằm
tạo điều kiện để đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả.
Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển
một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ðây cũng chính là việc thực hiện "dân là gốc" trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
-
Sự
phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Các
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc. Ðối với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên.
Ví
dụ: UBND Tỉnh A một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND Tỉnh A
theo chiều ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo
chiều dọc.
Ðối
với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc
vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên
trực tiếp.
Ví
dụ: Sở Tư pháp Tỉnh B, một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh B,
mặt khác phụ thuộc vào Bộ Tư pháp.
Nguyên
tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước
với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích
của lãnh thổ.
a)
Cơ sở pháp lý
Việt
Nam là nước có nhiều dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ. Các
dân tộc đều có quyền bình đẳng với nhau trong mọi lĩnh vực.
"Nhà nước CH XHCN Việt nam là nhà nước thống nhất của các
dân tộc sinh sống trên đất nước Việt
nam
Nhà
nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân
tộc". (Ðiều 5- Hiến pháp 1992)
b)
Nội dung nguyên tắc
-
Trong
công tác lãnh đạo và sử dụng cán bộ:
Nhà
nước ưu tiên đối với con em các dân tộc ít người, thực
hiện chính sách khuyến khích về vật chất, tinh thần để họ
học tập. Số cán bộ nhà nước là người dân tộc ít người cũng
chiếm một số lượng nhất định trong cơ quan nhà nước, tạo điều
kiện cho người dân tộc ít người cùng tham gia quyết định
những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng
của họ và các vấn đề quan trọng khác của đất nước.
-
Trong
việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế-văn hóa-xã
hội
+
Nhà nước chú ý tới việc đầu tư xây dựng công trình quan
trọng về kinh tế, quốc phòng ở các vùng dân tộc ít người,
một mặt khai thác những tiềm năng kinh tế, xóa bỏ sự chênh
lệch giữa các vùng trong đất nước, đảm bảo nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của các dân tộc ít người.
+
Nhà nước có những chính sách đúng đắn đối với người đi xây
dựng vùng kinh tế mới, tổ chức phân bố lại lao động một cách
hợp lý tạo điều kiện thuận lợi để các
dân tộc ít người nâng cao
về mọi mặt.
-
Những ưu tiên cho các dân tộc ít người là sự cần thiết
không thể phủ nhận nhằm bù đắp phần nào cho việc thiếu
thốn điều kiện, đồng thời để tất cả các dân tộc có thể
đủ điều kiên để vươn lên trong xã hội. Tuy nhiên, sự ưu tiên
chính sách sẽ mất đi tác dụng nếu vượt khỏi phạm vi khuyến
khích, động viên. Nếu sự ưu tiên quá lớn, chắc chắn sẽ dẫn
đến việc cùng một vị trí giống nhau, nhưng hai khả năng không
tương đồng nhau. Ðiều này sẽ dẫn đến những khó khăn nhất
định trong công việc chung cũng như cho chính bản thân người được
ưu tiên đó.
a)
Cơ sở pháp lý
Ðây
là nguyên tắc thể hiện một nguyên lý căn bản của tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Bởi vì trước hết việc
tổ chức và hoạt động hành chính phải hợp pháp, tức là phải
tuân theo pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vì
vậy là một biện pháp để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
"Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa".
(Ðiều 12- Hiến pháp 1992)
b)
Nội dung nguyên tắc
Biểu
hiện của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành
chính nhà nước như sau:
1.
Trong lĩnh vực lập quy
Khi
ban hành quy phạm pháp luật thuộc phạm vi thẩm quyền của mình,
các cơ quan hành chính nhà nước phải tôn trọng pháp chế xã
hội chủ nghĩa, phải tôn trọng vị trí cao nhất của hiến pháp và luật, nội dung văn bản pháp luật
ban hành không được trái với hiến pháp và văn bản luật, chỉ
được ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi
thẩm quyền và hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
2.
Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
Việc
áp dụng quy phạm pháp luật phải tuân theo nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa, tức là phải phù hợp với yêu cầu của luật và
các văn bản quy phạm pháp luật khác, phải thiết lập trách
nhiệm pháp lý đối với các chủ thể áp dụng quy phạm pháp
luật, mọi vi phạm phải xử lý theo pháp luật, áp dụng pháp
luật phải đúng nội dung, thẩm quyền và phải tôn trọng những
văn bản quy phạm pháp luật do chính cơ quan ấy ban hành.
3.
Trong lĩnh vực tổ chức
Ðể
đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi
việc thực hiện pháp chế phải trở thành chức năng quan trọng
của mọi cơ quan quản lý và ngay trong bộ máy quản lý cũng phải
có những tổ chức chuyên môn thực hiện chức năng này. Vi phạm
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực tổ chức là
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc nhân dân lao
động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước, vi
phạm mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với
nhau.
4.
Trong việc quản lý nói chung
Mở
rộng, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân. Mọi quyết định
hành chính và hành vi hành chính đều phải dựa trên quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngược
lại, việc hạn chế quyền công dân chỉ được áp dụng trên cơ
sở hiến định.
5.
Phải
chịu trách nhiệm trước xã hội và pháp luật
Các
chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm do
những sai phạm của mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, xâm phạm đến lợi ích tới quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân và phải bồi thường cho công dân. Chính vì vậy,
hoạt động quản lý gắn liền với một chế độ trách nhiệm
nghiêm ngặt đối với một chủ thể quản lý. Chế độ trách
nhiệm ấy thông qua pháp luật và các hệ thống kỷ luật nhà nước.
Cụ thể hơn, yêu cầu của quản lý đặt dưới sự thanh tra,
kiểm tra giám sát và tài phán hành chính để pháp chế được tuân
thủ thống nhất, mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý theo
đúng pháp luật. Sự kiểm tra và giám sát ấy, trước hết phải
được bảo đảm thực hiện chính từ chủ thể quản lý. Tự
kiểm tra với tư cách tổ chức chuyên môn vì thế cũng rất cần
thiết như sự kiểm tra, giám sát từ phía các cơ qaun nhà nước tương
ứng, các tổ chức xã hội và công dân.
B.
Các nguyên tắc tổ chức -kỹ thuật
1. Nguyên
tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa giới hành
chính. |
Ngành
là một phạm trù chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức sản
xuất, kinh
doanh có cùng một cơ cấu kinh tế-kỹ thuật hay các tổ chức,
đơn vị hoạt động với cùng một mục đích giống nhau. Có sự
phân chia các hoạt động theo ngành tất yếu dẫn đến việc
thực hiện hoạt động quản lý theo ngành.
Quản
lý theo ngành là hoạt động quản lý ở các đơn vị, các tổ
chức kinh tế, văn
hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế-kỹ thuật hay hoạt động
với cùng một mục đích giống nhau nhằm làm cho hoạt động của
các tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp
nhàng, đáp ứng được yêu cầu của nhà nước và xã hội. Hoạt
động quản lý theo ngành được thực hiện với hình thức, qui mô
khác nhau, có thể trên phạm vi toàn quốc, trên từng địa hay
một vùng lãnh thổ.
Quản
lý theo địa giới hành chính là quản lý trên một phạm vi địa
bàn nhất định theo sự phân vạch địa giới hành chính của nhà
nước. Quản lý theo địa giới hành chính ở nước ta được
thực hiện ở bốn cấp:
-
Cấp Trung ương (cấp nhà nước)
-
Tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương;
-
Huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
-
Xã,
phường, thị trấn.
Nội
dung của hoạt động quản lý theo địa giới hành chính gồm đề
ra các chủ trương, chính sách, có quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội trên một phạm vi toàn lãnh thổ. Bắt đầu
từ qui hoạch xây dựng và quản lý kết cấu hạ tầng cho sản
xuất, đời sống dân cư sống và làm việc trên lãnh thổ. Tiếp
đó, có sự tổ chức điều hòa phối hợp sự hợp tác, quản lý
thống nhất về khoa học công nghệ, liên kết, liên doanh các đơn
vị kinh tế, văn hóa, xã hội trên lãnh thổ...
Trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, quản lý theo ngành luôn
được kết hợp chặt chẽ với quản lý theo địa giới hành chính.
Ðây chính là sự phối hợp giữa quản lý theo chiều dọc của các
Bộ với quản lý theo chiều ngang của chính quyền địa phương
theo sự phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý giữa các ngành,
các cấp. Sự kết hợp này là một nguyên tắc cơ bản trong quản
lý hành chính nhà nước, mang tính cần thiết, khách quan. Nội dung
của quản lý theo điạ giới hành chính:
+
Xây dựng qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên
lãnh thổ, nhằm xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả từ trung
ương tới địa phương.
+ Qui hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất và đời
sống dân cư sống và làm việc trên một địa giới hành chính.
Ðầu tư kinh tế luôn được khuyến khích và chù ý trong quá trình
lập dự án hạ tầng. Tuy nhiên, phải có kế hoạch và định hướng,
tránh tình trạng "đầu tư đi trước, qui hoạch theo sau",
làm sự phát triển và an cư bị xáo trộn, gây mất cân bằng
trong quản lý kinh tế-xã hội.
+ Tổ chức điều hoà, phối hợp, hợp tác liên doanh giữa các
đơn vị kinh tế trực thuộc Trung ương về những mặt có liên
quan đến linh tế- xã hội trên địa bàn lãnh thổ; bảo đảm cho
các điều kiện ở địa phương phục vụ cho phương hướng phát
triển của trung ương, và đa dạng hoá các khả năng, ngành nghề
phát triển.
+ Tổ chức, chăm lo đời sống nhân dân trên một địa bàn
lãnh thổ, không kể các nhân, tổ chức đó do Trung ương hay địa
phương quản lý. Mặt khác, bảo đảm sự chấp hành pháp luật chính
sách của địa phương, không trái với Trung ương.
2
Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng |
Khi
thực hiện hoạt động quản lý ngành đòi hỏi các chủ thể
quản lý phải thực hiện rất nhiều việc chuyên môn khác nhau như
lập quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành, quản lý thực
hiện các khoản thu chi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp
luật...Do khối lượng công việc quản lý ngày càng nhiều và mang
tính chất phức tạp nên đòi hỏi tính chyên môn hóa cao, vì thế
nhu cầu quản lý theo chức năng luôn được đặt ra.
Quản
lý theo chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất
định
của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Cơ quan quản lý
theo chức năng là cơ quan quản lý một lĩnh vực chuyên môn hay
một nhóm các lĩnh vực chuyên môn có liên quan với nhau.
Quản
lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng nhằm đảm
bảo việc thực hiện có hiệu quả từng chức năng quản lý riêng
biệt của các đơn vị, tổ chức trong ngành, đồng thời bảo đảm
mối quan hệ liên ngành, làm cho toàn bộ hoạt động của hệ
thống ngành được phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả.
Ví
dụ: Trong lĩnh vực xây dựng, có sự kết hợp giữa Bộ Xây
dựng, Bộ kế hoạch và
đầu tư, Bộ Giao thông vân tải...Trong đó, Bộ Xây dựng có vai
trò trung tâm, kết hợp với các bộ và các cơ quan hữu quan lập
nên các dự án qui hoạch xây dựng tương ứng.
Theo
quy định của pháp luật, hệ thống các cơ quan chuyên môn được
hình thành để thực hiện việc quản lý theo chức năng. Theo hệ
thống dọc có bộ, sở, phòng, ban chuyên môn quản lý chức năng,
chịu sự quản lý của cơ quan quản lý theo chức năng có thẩm
quyền ở cấp trên. Nguyên tắc này thể hiện quyền hạn, nhiệm
vụ của cơ quan quản lý theo chức năng trong việc thực hiện các
hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể:
-
Các
cơ quan quản lý theo chức năng có quyền ban hành các quy phạm pháp
luật, các mệnh lệnh cụ thể liên quan đến chức năng quản lý
của mình theo quy định của pháp luật, có tính chất bắt buộc
thực hiện đối với các cơ quan quản lý chuyên ngành.
-
Các
cơ quan quản lý theo chức năng kiểm tra việc thực hiện các chính
sách, chủ trương do mình đề ra, xử lý hay đề nghị cấp có
thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm các chính sách, chủ trương
đó theo quy định của pháp luật.
Có
thể nói nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý
theo chức năng là một nguyên tắc có tầm quan trọng rất lớn
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nó giúp cho hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước có sự đồng bộ và
thống nhất với nhau. Nếu thiếu sự liên kết này, hoạt động
của ngành trở nên thiếu đồng bộ, ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
3.
Phân định chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý
sản xuất kinh doanh. |
Theo Hiến pháp 1992 nước CHXHCN Việt nam, nền kinh tế nước
ta là "nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng
XHCN" (Ðiều 15). Liên quan đến chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế, có các vấn đề sau:
1.
+ Tuy nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ
yếu, nhà nước không phải là người trực tiếp kinh doanh. Các cơ
quan nhà nước định ra chiến lược, qui hoạch và định hướng
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý có cơ
sở pháp lý ổn định vững chắc. Các tổ chức kinh doanh có
nhiệm vụ chấp hành và cụ thể hoá chiến lược và kế hoạch
kinh tế- xã hội của nhà nước, thực hiện cơ chế kinh doanh, tiêu
chuẩn, định mức của nhà nước, chịu sự kiểm tra, giám sát
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.
+ Nhà nước có chức năng tổ chức và điều chỉnh nền
kinh tế quốc dân bằng những biện pháp vĩ mô: thông qua các
biện pháp kinh tế, hành chính, tạo khung cho cạnh tranh lành mạnh
trong sản xuất kinh doanh. Các tổ chức kinh doanh trực tiếp thực
hiện kinh doanh như: xây dựng, vận tải, ngân hàng... trong phạm vi
vĩ mô, nhằm tạo nhiều của cải vật chất thiết yếu cho xã
hội, tránh sự độc quyền của tư nhân, có thể ảnh hưởng không
tốt đến nền kinh tế quốc dân.
3.
+ Khác với các mối quan hệ trong hoạt động chấp hành điều
hành, các quan hệ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức
kinh doanh được điều chỉnh bình đẳng theo quan hệ pháp luật dân
sự, luật thương mại.
4.
+ Nếu các cơ quan nhà nước hoạt động bằng ngân sách nhà
nước, thì các tổ chức kinh doanh là những tổ chức độc lập
tự chủ về tài chính, tự cấp vốn và hạch toán kinh tế.
5.
+ Việc quản lý trong hành lang pháp lý chặt chẽ thông qua các
cơ quan quản lý hành chính nhà nước sẽ tạo điều kiện cho các
hoạt động kinh tế thuận lợi, thông thoáng, tự chủ và đạt
hiệu quả cao.
CÂU
HỎI
1.
Thế nào là nguyên tắc? Giải thích các đặc điểm của
hệ thống các nguyên tắc?
2.
Tại sao việc quản lý hành chính nhà nước phải tuân thủ
hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước? Theo anh
(chị), nguyên tắc nào là quan trọng nhất trong hệ thống các nguyên
tắc trên? Giải thích tại sao?