KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÀNH CHÍNH
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT HÀNH CHÍNH
LUẬT HÀNH CHÍNH-MỘT NGÀNH LUẬT ĐỘC LẬP VỚI HỆ THÔNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
HỆ THỐNG NGÀNH LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.
______________________________________________________________________________________________
I. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
Có
nhiều cách giải thích khác nhau cho thuật ngữ "hành chính"
và "luật hành chính". Tuy nhiên, tất cả đều thống
nhất ở một điểm chung: Luật Hành chính là ngành luật về
quản lý nhà nước. Do vậy, thuật ngữ "hành chính" luôn
luôn đi kèm và được giải thích thông qua khái niệm "quản lý"
và "quản lý nhà nước".
a.
Quản lý
Khái
niệm quản lý
Một
cách tổng quát nhất, quản lý được xem là quá trình "tổ
chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định"[1],
đó là sự kết hợp giữa tri thức và lao động trên phương
diện điều hành. Dưới góc độ chính trị: quản lý được
hiểu là hành chính, là cai trị; nhưng dưới góc độ xã hội:
quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ huy. Dù duới góc độ
nào đi chăng nữa, quản lý vẫn phải dựa những cơ sở, nguyên
tắc đã được định sẳn và nhằm đạt được hiệu quả của
việc quản lý, tức là mục đích của quản lý.
Tóm
lại, quản lý là sự điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay
một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên
tắc tương ứng cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo đúng
ý muốn của người quản lý nhằm đạt được mục đích đã đặt
ra từ trước. Là một yếu tố thiết yếu quan trọng, quản lý không
thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát
triển cao thì vai trò của quản lý càng lớn và nội dung càng
phức tạp. Từ đó, quản lý thể hiện các đặc điểm:
Ðặc
điểm của quản lý
+
Quản lý là sự tác động có mục đích đã được đề ra theo đúng
ý chí của chủ thể quản lý đối với các đối tượng chịu
sự quản lý. "Ðúng ý chí của người quản lý" cũng đồng
nghĩa với việc trả lời câu hỏi tai sao phải quản lý và quản
lý để làm gì.
+
Quản lý là sự đòi hỏi tất yếu khiùù có hoạt động chung
của con người. C.Mác coi quản lý xã hội là chức năng đặc
biệt sinh ra từ tính chất xã hội hoá lao động.
+
Quản lý trong thời kỳ nào, xã hội nào thì phản ánh bản chất
của thời kỳ đó, xã hội đó. Ví dụ: ở thời kỳ công xã nguyên
thủy thì hoạt động quản lý còn mang tính chất thuần túy, đơn
giản vì lúc này con người lao động chung, hưởng thụ chung,
hoạt động lao động chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm, người
quản lý bấy giờ là các trưởng làng, tù trưởng. Thời kỳ này
chưa có nhà nước nên hoạt động quản lý dựa vào các phong
tục, tập quán chứ chưa có pháp luật để điều chỉnh.
+
Quản lý muốn được thực hiện phải dựa trên cơ sở tổ chức
và quyền uy. Quyền uy là thể thống nhất của quyền lực và uy tín.
Quyền lực là công cụ để quản lý bao gồm hệ thống pháp
luật và hệ thống kỷ luật nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phân cấp quản lý rành
mạch. Uy tín thể hiện ở kiến thức chuyên môn vững chắc, có năng
lực điều hành, cùng với phẩm chất đạo đức cách mạng và
bản lĩnh chính trị vững vàng, đảm bảo cả hai yếu tố "tài"
và đức". Uy tín luôn gắn liền với việc biết đổi mới,
biết tổ chức và điều hành, thực hiện "liêm chính, chí công,
vô tư". Nói một cách ngắn gọn, có quyền uy thì mới đảm
bảo sự phục tùng của cá nhân đối với tổ chức. Quyền uy là
phương tiện quan trọng để chủ thể quản lý điều khiển, chỉ
đạo cũng như bắt buộc đối với đối tượng quản lý trong
việc thực hiện các mệnh lệnh, yêu cầu mà chủ thể quản lý
đề ra.
Nhà
nước
Hệ
thống chính trị của nhà nước ta bao gồm: Ðảng Cộng sản
Việt nam, Mặt trận tổ quốc Việt nam, các tổ chức thành viên,
các tổ chức xã hội khác và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt nam. Trong cơ chế tổng hợp quản lý đất nước, nhà
nước là chủ thể duy nhất thực hiện chức năng quản lý (quản
lý nhà nước). Sự quản lý của nhà nước trên cơ sở đại
diện cho toàn xã hội, cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân,
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của Ðảng, theo pháp luật.
Quản
lý nhà nước
Quản
lý nhà nước là quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước,
sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã
hội chủ yếu và quan trọng của con người. Ðiểm khác nhau cơ
bản giữa quản lý nhà nước và các hình thức quản lý khác (ví
dụ: quản lý của các tổ chức xã hội...), là tính quyền lực
nhà nước gắn liền với cưỡng chế nhà nước khi cần. Từ khi
xuất hiện, nhà nuớc điều chỉnh các quan hệ xã hội được xem
là quan trọng, cần thiết. Quản lý nhà nước được thực hiện
bởi toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước
nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.
Khái
niệm
Quản
lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành
của cơ quan hành chính nhà nước, của các cơ quan nhà nước khác
và các tổ chức được nhà nước ủy quyền quản lý trên cơ
sở của luật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng
tổ chức, quản lý, điều hành các quá trình xã hội của nhà nước.
Nói cách khác, quản lý hành chính nhà nước (nói tắt là quản lý
nhà nước) chính là quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành pháp -
được thực hiện bởi ít nhất một bên có thẩm quyền hành chính
nhà nước trong quan hệ chấp hành, điều hành.
Quản
lý hành chính nhà nước trước hết và chủ yếu được thực
hiện bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ và các
cơ quan chính quyền địa phương các cấp, không kể một số tổ
chức thuộc nhà nước mà không nằm trong cơ cấu quyền lực như
các doanh nghiệp.
Ðặc
điểm của quản lý hành chính nhà nước
1.
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động vừa mang tính
chấp hành, vừa mang tính điều hành.
-
Các cơ quan hành chính nhà nước thực thi quyền hành pháp,
không có quyền lập pháp và tư pháp nhưng góp phần quan trọng vào
qui trình lập pháp và tư pháp. Tính chấp hành của hoạt động
quản lý hành chính nhà nước được thể hiện ở sự thực
hiện trên thực tế các văn bản hiến pháp, luật, pháp lệnh và nghị quyết của cơ quan lập pháp- cơ quan dân
cử.
-
Tính điều hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước
thể hiện ở chổ là để đảm bảo cho các văn bản pháp luật
của cơ quan quyền lực được thực hiện trên thực tế thì các
chủ thể của quản lý hành chính nhà nước phải tiến hành các
hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối
tượng quản lý thuộc quyền.
-
Ðể đảm bảo sự thống nhất của hai yếu tố này đòi hỏi
rất nhiều yêu cầu. Trong đó, quản lý hành chính nhà nước trước
hết phải bảo đảm việc chấp hành văn bản của cơ quan dân
cử đaị diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, từ đó mà
thực hiện quản lý điều hành. Mọi hoạt động chấp hành và điều
hành đều phải xuất phát từ mục đích nhằm phục vụ cho nhân
dân, đảm bảo đời sống xã hội cho nhân dân về mọi mặt, tương
ứng với các lĩnh vực trong quản lý hành chính nhà nước.
2.
Hoạt
động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chủ
động và sáng tạo. Ðiều này thể hiện ở việc các chủ thể
quản lý hành chính căn cứ vào tình hình, đặc điểm của từng
đối tượng quản lý để đề ra các biện pháp
quản lý thích hợp. Tính chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ nét
trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành
chính để điều chỉnh các hoạt động quản lý nhà nước. Tính
chủ động sáng tạo được quy định bởi chính bản thân sự
phức tạp, đa dạng, phong phú của đối tượng quản lý và đòi
hỏi các chủ thể quản lý phải áp dụng biện pháp giải quyết
mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên,
chủ động và sáng tạo không vượt ra ngoài phạm vi của nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước. Ðể đạt
được điều này, đòi hỏi tôn trọng triệt để tất cả các
nguyên tắc trong hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà
nước.
3.
Hoạt
động quản lý hành chính nhà nước được bảo đảm về phương
diện tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
-
Trước hết là bộ máy cơ quan nhà nước - đây là hệ
thống cơ quan nhiều về số lượng, biên chế; phức tạp về cơ
cấu tổ chức; đa dạng về chức năng, nhiệm vụ cũng như
phương pháp hoạt động; có cơ sở vật chất to lớn, có đối
tượng quản lý đông đảo, đa dạng, chủ thể chủ yếu là cơ
quan hành chính nhà nước, đó là điều kiện quan trọng để
thực hiện nhiệm vụ quản lý. Các cơ quan hành chính trực tiếp
xử lý công việc hàng ngày của Nhà nước, thường xuyên tiếp xúc
với dân, giải quyết các yêu cầu của dân, là cầu nối quan
trọng của Ðảng, nhà nước với nhân dân. Nhân dân đánh giá
chế độ, đánh giá Ðảng trước hết thông qua hoạt động của
bộ máy hành chính.
-
Bảo đảm tính liên tục và ổn định trong hoạt động
quản lý. Liên tục để tránh lối làm việc hô hào, theo phong trào.
Tính ổn định nhằm để đảm bảo các hoạt động như: lưu
trữ hồ sơ, giấy tờ. Ðó có thể nói là trách nhiệm của cơ
quan hành chính nhà nước đối với xã hội.
4.
Quản
lý hành chính nhà nước là hoạt động có mục tiêu chiến lược,
có chương trình và có kế hoạch để thực hiên mục tiêu. Công tác
quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có mục đích và định
hướng. Vì vậy, phải có chương
trình, kế họach dài hạn, trung hạn và hàng năm. Có các chỉ tiêu
vừa mang tính định hướng, vừa mang tính pháp lệnh; có hệ
thống pháp luật vừa được áp dụng thực thi triệt để cho
hoạt động quản lý, vừa tạo hành lang pháp lý cho hoạt động
đặt dưới sự quản lý ấy.
5.
Quản
lý hành chính nhà nước XHCN không có sự cách biệt tuyệt đối
về mặt xã hội giữa chủ thể quản lý và chủ thể của quản
lý (chủ thể chịu sự quản lý). Cán bộ quản lý nhà nước
phải là "công bộc" của nhân dân, biết lắng
nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, thu hút được rộng rãi
quần chúng nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã
hội. Chống quan liêu, cửa quyền, hách dịch, ức hiếp quần chúng.
6.
Tính
chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao. Ðó chính là nghiệp vụ của
một nền
hành chính văn minh, hiện đại. Khi nói đến một "nền kinh
tế tri thức"- nền kinh tế mà ở đó giá trị của tri thức,
của sự hiểu biết được đặt lên hàng đầu-thì đội ngũ
quản lý nền kinh tế tri thức ấy phải có một tầm vóc tương
xứng. Quản lý nhà nước khác với hoạt động chính trị ở
chổ: trình độ kiến thức chuyên môn và kỹ năng quản lý thực
tiễn làm tiêu chuẩn hàng đầu.
7.
Tính
không vụ lợi: Quản lý hành chính nhà nước lấy việc phục vụ
lợi ích công làm
động cơ và mục đích của hoạt động. Quản lý hành chính nhà
nước không phải vì lợi ích thù lao, càng không theo đuổi mục
đích kinh doanh lợi nhuận. Cán bộ hành chính vì vậy phải bảo
đảm "cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư".
II. LUẬT HÀNH
CHÍNH-MỘT NGÀNH LUẬT ĐỘC LẬP TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT
NAM.
Ðối
tượng điều chỉnh của một ngành luật nói chung là những quan
hệ xã hội xác định các đặc tính cơ bản giống nhau và do
những quy phạm thuộc ngành luật đó điều chỉnh. Cùng với phương
pháp điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh là tiêu chuẩn để
phân biệt ngành luật này với ngành luật khác.
Ðối
tượng điều chỉnh của luật hành chính Việt Nam là những quan
hệ xã hội chủ yếu và cơ bản hình thành trong lĩnh vực quản lý
hành chính nhà nước, hay nói khác hơn đối tượng điều chỉnh
của luật hành chính là những quan hệ xã hội hầu hết phát sinh
trong hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước.
Nhìn
chung, đối tượng điều chỉnh của luật hành chính bao gồm
những vấn đề sau:
+
Việc thành lập, cải tiến cơ cấu bộ máy, cải tiến chế độ
làm việc, hoàn chỉnh các quan hệ công tác của các cơ quan nhà nước.
+
Các hoạt động quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh
quốc phòng, trật tự xã hội trên từng địa phương và từng ngành.
+
Trực tiếp phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
Ðây phải được xác định là mục tiêu hàng đầu của quản lý
hành chính.
+
Khen thưởng, trao danh hiệu cho các cá nhân tổ chức có đóng góp
và đạt được những thành quả nhất định trong lĩnh vực hành
chính nhà nước hoặc trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
theo luật định; xử lý các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm
trật tự quản lý hành chính nhà nước.
Căn
cứ vào phạm vi điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh của
luật hành chính Việt Nam ta có thể chia các quan hệ xã hội
thuộc đối tượng điều chỉnh của luật hành chính thành hai nhóm
lớn.
* Nhóm 1: Những quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trong phạm vi các cơ quan hành chính nhà nước (ngoại trừ hoạt động trong quan hệ công tác nội bộ), với mục đích chính là đảm bảo trật tự quản lý, hoạt động bình thường của các cơ quan hành chính nhà nước.
Nhóm
này thường được gọi ngắn gọn là nhóm hành chính công. Nói
một cách ngắn gọn, quan hệ pháp luật hành chính công được hình
thành giữa các bên chủ thể đều mang tư cách có thẩm quyền hành
chính nhà nước khi tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính đó.
Ðây
là nhóm những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh cơ bản
của luật hành chính. Thông qua việc thiết lập những quan hệ
loại này, các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện các chức năng
cơ bản của mình. Những quan hệ này rất đa dạng, phong phú bao
gồm những quan hệ được chia thành 2 nhóm nhỏ như
sau:
* Quan
hệ dọc
1.
Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên
với cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới theo hệ thống dọc.
Ðó là những cơ quan nhà nước có cấp trên, cấp dưới phụ
thuộc nhau về chuyên môn kỷ thuật, cơ cấu, tổ chức...
Ví
dụ: Mối quan hệ giữa Chính phủ với UBND tỉnh Cần Thơ; Bộ Tư
pháp với
Sở Tư pháp...
2.
Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền chuyên môn cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền chung cấp dưới trực tiếp nhằm thực hiện chức năng
theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp với UBND tỉnh Cần
Thơ; giữa Sở Thương
mại tỉnh Cần Thơ với UBND huyện Ô Môn...
3.
Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị, cơ
sở trực thuộc.
Ví
dụ: Quan hệ giữa Bộ Giáo dục - Ðào tạo với Trường đại
học Cần Thơ, Giữa
Bộ Y tế và các bệnh viện nhà nước.
* Quan
hệ ngang
1.
Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền chung với cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp.
Ví
dụ: Mối quan hệ giữa UBND tỉnh Cần Thơ với Sở Thương mại
tỉnh Cần Thơ
; Giữa Chính Phủ với Bộ Tư pháp ...
2.
Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn
cùng cấp với nhau. Các cơ quan này không có sự phụ thuộc nhau
về mặt tổ chức nhưng theo quy định của pháp luật thì có thể
thực hiện 1 trong 2 trường hợp sau:
-
Một khi quyết định vấn đề gì thì cơ quan này phải được
sự đồng ý, cho phép hay phê chuẩn của cơ quan kia trong lĩnh vực
mình quản lý.
Ví
dụ: Mối quan hệ giữa Bộ Tài chính
với Bộ Giáo dục - Ðào tạo trong việc
quản lý ngân sách Nhà nước; giữa Sở Lao động Thương binh -Xã
hội với các Sở khác trong việc thực hiện chính sách xã hội
của Nhà nước.
-
Phải phối hợp với nhau trong một số lĩnh vực cụ thể
Ví
dụ: Thông tư liên Bộ do Bộ giáo dục đào tạo phối hợp với
Bộ tư pháp ban hành về vấn đề liên quan đến việc đào tạo
cử nhân Luật
Thông
tư liên ngành do Bộ trưởng Bộ tư pháp phối hợp với Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao liên quan đến lĩnh vực tội
phạm ban hành.
3. Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với các đơn vị, cơ sở trực thuộc trung ương đóng tại địa phương đó.
Ví
dụ: quan hệ giữa UBND tỉnh Cần Thơ với Trường đại học Cần
Thơ.
Thực
tiễn của hoạt động quản lý hành chính nhà nước cho thấy
trong một số trường hợp pháp luật quy định có thể trao quyền
thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành cho một số các cơ
quan nhà nước khác (không phải là cơ quan hành chính nhà nước),
các tổ chức, cá nhân. Ðiều này có nghĩa là hoạt động quản lý
hành chính nhà nước không chỉ do các cơ quan hành chính nhà nước
tiến hành.
Hoạt
động của các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức hoặc cá nhân
được trao quyền có tất cả các hậu quả pháp lý như hoạt động
của các cơ quan hành chính nhà nước nhưng hoạt động này chỉ
giới hạn trong việc thực hiện hoạt động chấp hành điều hành
Ngoài
ra, mỗi cơ quan nhà nước đều có chức năng cơ bản riêng và
muốn hoàn thành chức năng cơ bản của mình, mỗi cơ quan nhà nước
phải tiến hành những hoạt động như kiểm tra nội bộ, nâng cao
trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ, phối hợp hoạt động
giữa các bộ phận của cơ quan, công việc văn phòng, đảm bảo
những điều kiện vật chất cần thiết. Ðây là hoạt động tổ
chức nội bộ còn gọi là quan hệ công tác nội bộ khác với
quan hệ pháp luật hành chính, nhưng
có quan hệ chặt chẽ với hoạt động hành chính. Nếu hoạt động
này được tổ chức tốt thì hiệu quả hoạt động của cơ quan
hành chính ấy sẽ cao và ngược lại, nếu việc tổ chức
nội bộ quá cồng kềnh thì hoạt động hành chính của cơ quan đó
sẽ mang lại hiệu quả không cao.
*
Nhóm
2: Các quan hệ quản lý hình thành khi các cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trong các trường
hợp cụ thể liên quan trực tiếp tới các đối tượng không có
thẩm quyền hành chính nhà nước hoặc tham gia vào quan hệ đó không
với tư cách của cơ quan hành chính nhà nước, với mục đích chính
là phục vụ trực tiếp nhân dân, đáp ứng các quyền và lợi
hợp pháp của công dân, tổ chức.
Nói
ngắn gọn, đây là quan hệ pháp luật hành chính tư, hình thành
giữa một bên chủ thể tham gia với tư cách chủ thể có thẩm
quyền hành chính nhà nước và một bên chủ thể tham gia không
với tư cách chủ thể có thẩm quyền hành chính nhà nước. Nhóm
này được gọi ngắn gọn là nhóm hành chính tư". Ðây là
mục đích cao nhất của quản lý hành chính nhà nước khi
cơ quan hành chính- cơ quan được xem là công bộc của nhân dân,
quản lý hành chính vì quyền lợi nhân dân, vì trật tự chung cho
toàn xã hội, bao gồm các quan hệ cụ thể sau đây:
1.
Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị kinh
tế thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Các đơn vị
kinh tế này được đặt dưới sự quản lý thường xuyên của cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền.
Ví
dụ: Giữa UBND huyện Ô Môn với Hợp tác xã sản xuất nhà nước
trên địa bàn
huyện Ô Môn.
2. Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng.
Ví
dụ: Quan hệ giữa Chính phủ với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức
thành viên của Mặt trận.
3.
Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân Việt Nam,
người nước ngoài, người không quốc tịch đang làm ăn cư trú
tại Việt Nam.
Ví
dụ: quan hệ giữa cảnh sát với cá nhân (gồm công dân Việt Nam,
người nước
ngoài, người không quốc tịch) vi phạm luật lệ giao thông.
*
Mối
liên hệ giữa hành chính tư và hành chính công
Thật
ra mọi sự phân chia chỉ mang tính chất tương đối để tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trính nghiên cứu. Hai lĩnh vực hành chính
tư và hành chính công liên quan trực tiếp và tương hỗ cho mục
đích của quản lý hành chính nhà nước. Quản lý hành chính công
là cơ sở để bảo đảm hoạt đông bình thườỡng của cơ quan
hành chính nhà nước. Trong khi đó, quản lý hành chính tư thể
hiện rõ trực tiếp mục đích của quản lý hành chính, giữ gìn
trật tự quản lý xã hội theo nguyên vọng của nhân dân. Trong quá
trình quản lý, có những công việc liên quan đền cả hai lĩnh
vực hoặc rất khó phân biệt giữa hai phạm vi: hành chính tư và
hành chính công. Chẳng hạn như khi nhận được đơn khiếu nại
về việc cấp giấy phép xây dựng cho một cá nhân công dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước
cấp dưới, cơ quan cấp trên trực tiếp ra chỉ thị buộc cơ quan
hành chính cấp dưới phải xem xét lại quyết định của cơ quan
ấy. Trường hợp này phát sinh này có 3 quan hệ pháp luật hành chính.
(hai quan hệ pháp luật hành chính tư, một quan hệ pháp luật hành
chính công).
Trên
cơ sở phân tích đặc điểm của các vấn đề liên quan đến
luật hành chính, đối tượng điều chỉnh của luật hành chính,
có thể đưa ra định nghĩa luật hành chính như sau:
Luật
hành chính là một ngành luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
quản lý hành chính nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước,
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước
xây dựng và ổn định chế độ công tác nội bộ của mình, các
quan hệ xã hội trong quá trình các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, cá nhân thực hiện hoạt động quản lý hành chính
nhà nước đối với các vấn đề cụ thể do pháp luật quy định.
Ngoài
ra có thể định nghĩa luật hành chính một cách ngắn gọn hơn:
Luật
hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam
bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt
động chấp hành - điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước.
Như
vậy, qua định nghĩa trên ta thấy rằng chỉ có thể nói đến điều
chỉnh bằng pháp luật hành chính
khi trong quan hệ quản lý phải có ít nhất một bên có thẩm
quyền với tư cách là chủ thể thực hiện chức năng chấp hành
và điều hành của nhà nước. Nếu cơ quan hành chính nhà nước
hoạt động không phải trong phạm vi, lĩnh vực thẩm quyền
của mình, không sử dụng quyền lực nhà nước, thì hoạt động
đó được thực hiện không
phải thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật hành chính.
Phương
pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức tác động đến
các quan hệ xã hội bằng pháp luật. Phương pháp điều chỉnh là
yếu tố quan trọng để xác định ngành luật đó có phải là ngành
luật độc lập hay không. Ngoài ra, phương pháp điều chỉnh còn góp
phần xác định phạm vi điều chỉnh của các ngành luật trong trường
hợp những quan hệ xã hội có chỗ gần kề hoặc đan xen
với nhau.
Ðặc
trưng của phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là tính
mệnh lệnh đơn phương, xuất phát từ quan hệ quyền uy - phục tùng
giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước và ra những mệnh
lệnh bắt buộc đối với bên có nghĩa vụ phục tùng. Sự áp đặt
ý chí được thể hiện trong các trường hợp sau:
-
Cả
hai bên đều có những quyền hạn nhất định do pháp luật quy định
nhưng bên này quyết định vấn đề gì thì phải được bên kia
cho phép, phê chuẩn. Ðây là quan hệ đặc trưng của hành chính công.
-
Một
bên có quyền đưa ra những yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có
thẩm quyền xem xét, giải quyết, có thể thỏa mãn những yêu
cầu, kiến nghị này hoặc có thể bác bỏ.
-
Một
bên có quyền ra các mệnh lệnh yêu cầu còn bên kia phải phục tùng
các yêu cầu, mệnh lệnh đó.
-
Một
bên có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính buộc
đối tượng quản lý phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Sự
bất bình đẳng còn thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương
và bắt buộc của các quyết định hành chính.
Các
cơ quan hành chính nhà nước và các chủ thể quản lý hành chính
nhà nước, dựa vào thẩm quyền của mình trên cơ sở phân tích,
đánh giá tình hình có quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các
biện pháp quản lý thích hợp đối với từng đối tượng quản
lý cụ thể. Những quyết định ấy có tính chất đơn phương vì
chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản lý hành chính nhà nước
trên cơ sở quyền lực đã được pháp luật quy định.
Ngoài
ra, có những trường hợp phương pháp thoả thuận được áp
dụng trong quan hệ pháp luật hành chính, còn gọi là "quan hệ
pháp luật hành chính theo chiều ngang". Cụ thể như khi ban hành
các văn bản liên bộ, liên ngành, liên tịch...(ví dụ: Thông tư
Liên Bộ của Bộ Tư pháp và Bộ Xây dựng; Thông tư liên tịch
giữa Mặt trận Tổ Quốc Việt nam và Bộ giáo dục...). Tuy nhiên,
các "quan hệ pháp luật hành chính theo chiều ngang" cũng là
tiền đề cho sự xuất hiện "quan hệ pháp luật hành chính
theo chiều dọc". Suy cho cùng, các quan hệ pháp luật hành chính
cũng không hoàn toàn bình đẳng tuyệt đối. Trên những đặc
quyền hành chính và thể chế hành chính, các bên chấp nhận
những đề nghị của nhau, cùng phục vụ cho mục đích quản lý hành
chính nhà nước.
Tóm
lại: Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật hành chính
Việt Nam là
phương pháp mệnh lệnh đơn phương. Nó được xây dựng trên các
nguyên tắc sau:
-
Một
bên được nhân danh nhà nước sử dụng quyền lực để đưa ra các
quyết định hành chính còn bên kia phải tuân theo những quyết định
ấy.
-
Quyết
định hành chính phải thuộc phạm vi thẩm quyền của bên nhân
danh nhà nước, vì lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, trên cơ
sở pháp luật có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên
hữu quan và được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế nhà nước.
Từ
các phân tích trên, có thể kết luận được Luật Hành chính là
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt nam, có đối
tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh đặc thù gắn
liền với khái niệm quản lý hành chính nhà nước.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT HÀNH CHÍNH VỚI MỘT SỐ NGÀNH LUẬT KHÁC.
Hệ
thống pháp luật Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật khác nhau,
mỗi ngành luật điều chỉnh những quan hệ xã hội nhất định
với những đối tượng riêng và bằng những phương pháp điều
chỉnh nhất định. Ngoài việc phân biệt các ngành luật với nhau
nhằm làm rõ sự đặc thù của mỗi ngành luật, còn phải thấy
được mối quan hệ giữa chúng trong một chỉnh thể hoàn chỉnh:
hệ thống pháp luật Việt nam.
Luật
hiến pháp là ngành luật có đối tượng điều chỉnh là những
quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất như chính sách cơ
bản của nhà nước trong lĩnh vực đối nội đối ngoại; chế độ
kinh tế - chính trị; các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị của nước ta; thiết lập bộ máy nhà nước.
Ðối tượng điều chỉnh của luật hiến pháp rộng hơn đối tượng
điều chỉnh của luật hành chính.
Luật
hành chính giữ vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa, chi
tiết hóa các quy phạm pháp luật nhà nước để từ đó điều
chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động chấp hành
và điều hành của nhà nước. Ngược lại, các vấn đề quyền công
dân, về tổ chức bộ máy bộ máy nhà nước được qui định cơ
bản trong hiến pháp, thể hiện rõ tính ưu việt trong các qui
phạm pháp luật hành chính.
2. Luật hành
chính và luật đất đai
Luật
Hành chính nói ngắn gọn là ngành luật về quản lý nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước trong từng lĩnh vực của đời
sống xã hội là những mảng tương ứng của luật hành chính.
Luật đấi đai là một ví dụ. Luật đất đai, về phương diện
hành chính là ngành luật về quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh
vực đất đai, xuất hiện, thay đổi và chấm dứt khi có quyết
định giao đất của cơ quan nhà nước.
Tuy
nhiên, các quan hệ pháp luật này có những nét đặc thù riêng.
ở nước ta, "đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước
thống nhất quản lý"[1].
Vì vậy không có khái niệm "chuyển nhượng quyền sở hữu đất",
mà chỉ có khái niệm "chuyển nhượng quyền sử dụng đất".
Hơn nữa, luật đất đai không chỉ được cơ quan hành chính nhà
nước điều chỉnh như một lĩnh vực có tính đặc thù riêng, mà
còn được điều chỉnh trên cơ sở quan hệ pháp luật dân sự liên
quan đến các hợp đồng cầm cố, thế chấp đất đai. Vì vậy,
theo quan điểm được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay thống nhất,
luật đất đai là một ngành luật trong hệ thống pháp luật
Việt nam, có quan hệ chặt chẽ sơ khởi với quan hệ pháp luật hành
chính:
-
Luật đất đai là ngành luật điều chỉnh quan hệ giữa nhà nước,
với tư cách là chủ sở hữu duy nhất đối với đất đai.
-
Trong quan hệ pháp luật đất đai, nhà nước có tư cách vừa là
chủ sở hữu, vừa là người thực hiện quyền lực nhà nước.
Cả
hai ngành luật này đều có các chế định pháp lý quy định hành
vi vi phạm pháp luật và các hình thức xử lý đối với người
vi phạm. Trong cả hai quan hệ pháp luật này, ít nhất là một bên
trong quan hệ nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước.
-
Hơn nữa, việc phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm hành
chính đôi khi khá phức tạp, nhất là những trường hợp vi phạm
hành chính "chuyển hoá" thành tội phạm.
-
Luật hành chính qui định nhiều nguyên tắc có tính bắt
buộc chung, ví dụ như: qui tắc an toàn giao thông, qui tắc phòng cháy
chữa cháy, qui tắc lưu thông hàng hoá, văn hoá phẩm. Trong một
số trường hợp, khi vi phạm qui tắc ấy có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Ví dụ như: hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hoá, trốn thuế...Những hành vi nêu trên nếu được thực
hiện lần đầu với số lượng không lớn thì là vi phạm hành chính,
còn nếu với số lượng lớn hoặc đã bị xử lý hành chính mà
còn tái phạm thì đó là tội phạm. Tuy nhiên, giữa chúng có sự
khác biệt cơ bản sau:
Luật
hình sự quy định hành vi nào là tội phạm, hình phạt nào áp
dụng cho hành vi phạm tội, điều kiện, thủ tục áp dụng. Ðể
xác định hành vi nào thuộc đối tượng điều chỉnh của luật
hình sự cần phải xem xét các yếu tố cấu thành của tội phạm
về mặt chủ quan, khách quan, chủ thể, khách thể. Thêm nữa,
luật hình sự phân biệt với luật hành chính ở tính chất hành
vi có tính chất nguy hiểm cao, mức độ thiệt hại lớn hơn.
Còn
luật hành chính lại quy định về các hành vi vi phạm hành chính,
các hình thức xử lý vi phạm hành chính và các vấn đề khác liên
quan đến việc xử lý đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính. Sự khác nhau giữa hai ngành luật này là ở tính chất,
mức độ của hành vi vi phạm.
Cũng
cần nhấn mạnh thêm rằng, các hình thức xử phạt vi phạm hành
chính không phải là hình phạt vi phạm hành chính mà là chế tài
đối với vi phạm hành chính. "Hình phạt" trong hệ thống
pháp luật Việt nam chỉ được qui định và áp dụng trong luật hình
sự mà thôi.
4.
Luật hành chính và luật dân sự
Ðối
tượng điều chỉnh của luật dân sự là những quan hệ tài sản
mang tính chất hàng hóa tiền tệ và các quan hệ nhân thân phi tài
sản. Luật dân sự quy định nội dung quyền sở hữu, những hình
thức chuyển nhượng, sử dụng, định đoạt tài sản...và phương
pháp điều chỉnh của luật dân sự là phương pháp bình đẳng,
thỏa thuận. Trong quan hệ pháp luật dân sự các chủ thể bình đẳng
với nhau về quyền và nghĩa vụ. Trong khi đó đối tượng điều
chỉnh của luật hành chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực chấp hành-điều hành. Luật hành chính quy định những
vấn đề như thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong quản lý
nhà vắng chủ, trưng mua tài sản...
Phương
pháp điều chỉnh của luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương,
dựa trên nguyên tắc quyền uy - phục tùng. Các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước có thể trực tiếp điều chỉnh quan hệ tài sản
thông qua việc ban hành quyết định chuyển giao tài sản giữa các
cơ quan, tổ chức đó. Một số cơ quan quản lý có quyền ra
quyết định tịch thu, kê kiên tài sản hoặc phạt tiền. Nhưng
trong cơ chế quản lý mới hiện nay, các cơ quan quản lý nhà nước
chủ yếu điều chỉnh quan hệ tài sản một cách gián tiếp thông
qua các quyết định về kế hoạch, tiêu chuẩn, chất lượng, về
cơ chế định giá...
Mặt
khác, trong nhiều trường hợp, các cơ quan quản lý nhà nước cũng
tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật dân sự. Nhưng ở đây,
các cơ quan đó không hoạt động với tư cách trực tiếp thực
hiện chức năng quản lý nhà nước, mà tham gia với tư cách một
pháp nhân, do vậy không thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành
luật hành chính.
Nhiều
qui phạm của Luật Hành chính và Luật lao động đan xen, phối
hợp để điều chỉnh những vấn đề cụ thể liên quan tới
hoạt động công vụ, lao động viên chức, tuyển dụng, cho thôi
việc đối với viên chức nhà nước, nhưng điều chỉnh từ
những góc độ khác nhau. Nếu luật lao động "nội dung"
của việc quản lý trong lĩnh vực quan hệ lao động, "trình
tự ban hành" các quan hệ lao động ấy lại được qui định
trong luật hành chính. Nói một cách cụ thể:
Luật
lao động điều chỉnh những vấn đề liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích của người lao động như quyền nghỉ ngơi,
quyền được trả lương, quyền hưởng bảo hiểm xã hội và
bảo hộ lao động...
Luật
hành chính xác định thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước
trong lĩnh vực lao động, đồng thời điều chỉnh những quan hệ
xã hội liên quan đến việc tổ chức quá trình lao động và chế
độ công vụ, thủ tục tuyển dụng, thôi việc, khen thưởng ...
Hai
ngành luật này quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện:
-
Quan hệ pháp luật hành chính là phương tiện thực hiện
quan hệ pháp luật lao động.
Ví
dụ: Sau khi thi đậu và được công nhận vào ngạch công chức, cán
bộ A được hưởng các chế độ nghỉ lễ, tử tuất do luật lao
động qui định.
-
Quan hệ pháp luật lao động lại là tiền đề của quan hệ
pháp luật hành chính.
Ví
dụ: Sau khi ký hợp đồng lao động với xí nghiệp (doanh nghiệp
nhà nước), cá nhân A với tư cách là thành viên của tập thể
lao động xí nghiệp đó, có quyền tham gia quản lý trong doanh
nghiệp theo nhiệm vụ được phân công.
Luật tài chính là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực hoạt
động tài chính của nhà nước, trong đó bao gồm cả các lĩnh
vực về thu chi ngân sách, phân phối nguồn vốn của nhà nước
mang tính chất tiền tệ liên quan đến nguồn thu nhập quốc dân.
Nhìn một cách tổng quát, luật tài chính và luật hành chính đều
điều chỉnh hoạt động tài chính của nhà nước:
+ Là một bộ phận chấp hành, điều hành nhà nước, luật
tài chính cũng sử dụng phổ biến phương pháp mệnh lệnh.
+ Luật hành chính qui định cơ chế kiểm toán nhằm đảm
bảo tính đúng đắn trong các quan hệ tài chính.
+ Luật hành chính chứa đựng các QPPL qui định thẩm quyền
của các cơ quan của các công tác tài chính vừa là qui phạm của
luật hành chính, đồng thời là nguồn của luật tài chính.
Tuy vậy, không chỉ có nguồn gốc liên quan chặt chẽ đến
luật hành chính, mà còn có mối quan hệ với luật hiến pháp và
một phần của luật dân sự. Các nguyên tắc của luật dân sự
được áp dụng trong một số hoạt động tài chính như tín
dụng, thuế... còn luật tài chính đa phần là điều chỉnh chính
các quan hệ tín dụng, thuế...ấy.
IV. HỆ THỐNG NGÀNH LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ VAI TRÒ LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.
Luật
hành chính gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ quản lý nhà nước trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, có mối quan hệ mật thiết với nhau
tạo thành một chỉnh thể thống nhất gọi là hệ thống ngành
luật hành chính Việt Nam. Hệ thống này được phân chia theo các
tiêu chí sau:
1.
Theo chủ thể quản lý và chủ thể của quản lý:
-
Qui phạm pháp luật Hành chính công.
-
Qui phạm pháp luật
Hành chính tư.
2.
Theo phạm vi quản lý:
-
Quản lý hành chính nhà nước nói chung.
-
Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
3.
Theo cách thức tiếp cận:
-
Quản lý hành chính nhà nước và chủ thể quản lý và chủ
thể của quản lý hành chính nhà nước.
-
Cách thức quản lý hành chính nhà nước, những phương
thức nhằm bảo đảm pháp chế XHCN và kỷ luật nhà nước.
-
Quản lý hành chính nhà nước trong trong lĩnh vực qui hoạch
xây dựng.
-
Tố tụng hành chính và các vấn đề có liên quan.
Trên cơ sở kết hợp các cách phân loại trên, luật hành chính
sẽ được nghiên cứu tập trung các phần cơ bản và thiết yếu
nhất, sẽ được trình bày chi tiết ở phần: môn học luật Hành
chính.
Luật
hành chính Việt Nam là một ngành luật về quản lý nhà nước, đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã
hội. Cụ thể:
a.
Về phương diện chính trị:
-
Tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng và không ngừng hoàn
thiện bộ máy nhà nước, việc bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội;
-
Góp phần quan trọng trong việc bảo vệ và tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
b.
Về phương diện kinh tế
-
Ðóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, phát triển nền kinh
tế quốc dân;
-
Thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế phát triển đồng bộ, nâng cao đời
sống nhân dân.
c
Về phương diện xã hội
-
Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
của tập thể, của nhà nước;
-
Hướng tới mục tiêu cao cả nhất của thể chế hành chính, đồng
thời cũng là bản chất của chế độ XHCN là phục vụ cho nhân dân
và "công bộc" của nhân dân.
Khoa
học luật hành chính là một ngành khoa học pháùp lý chuyên ngành,
bao gồm một hệ thống những cơ sở lý luận, học thuyết khoa
học, phạm trù, quan niệm về ngành Luật Hành chính. Sự phát
triển của môn khoa học này liên quan chặt chẽ đến quá trình ra
đời và phát triển của hệ thống văn bản pháp luật điều
chỉnh hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Là
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, những quan hệ hình thành
trong quá trình quản lý hành chính nhà nước và việc điều
chỉnh những quan hệ ấy, hệ thống pháp luật hành chính và
hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Cụ
thể như sau:
- Quản lý hành chính nhà nước, chủ thể quản lý và chủ
thể của quản lý hành chính nhà nước.
-
Cách thức quản lý hành chính nhà nước.
-
Những phương thức nhằm bảo đảm pháp chế XHCN và kỷ luật nhà
nước.
-
Quản lý hành chính nhà nước trong trong lĩnh vực qui hoạch xây
dựng: những phát hiện mới mẻ trong lĩnh vực hành chính tư..
-
Tố tụng hành chính và các vấn đề có liên quan.
-
Quản lý hành chính nhà nước trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội.
2.
Nhiệm vụ của khoa học luật hành chính
Làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước, nghiên
cứu tổng kết thực tiễn hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước, thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật trong quản
lý hành chính nhà nước, đề xuất những ý kiến nhằm hoàn
thiện các chế định pháp luật hành chính. Cải cách nền hành chính,
đảm bảo bộ máy hành chính thực sự là công bộc của nhân dân.
a.
Khái niệm
Phương
pháp luận của luật hành chính là cách thức tiếp cận vấn đề
mà luật hành chính điều chỉnh
b.
Các phương pháp
-
Theo phép duy vật biện chứng (nhìn nhận sự vật hiện tượng
trong trạng thái vận động không ngừng).
-
Theo chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðặc biệt,
những tác phẩm, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước,
pháp luật, pháp chế; nhiệm vụ của chính quyền các cấp, về
bộ máy nhà nước, về cán bộ, về mối quan hệ giữa cán bộ nhà
nước và nhân dân... là những tài liệu hết sức quí báu cho
việc định hướng hoạt động quản lý nhà nước.
-
Các nghị quyết của đại hội Ðảng Cộng Sản Việt nam với
những chủ trương đường lối, chính sách, đề ra những nguyên
tắc cơ bản, những biện pháp chủ yếu nhằm đổi mới, hoàn
thiện bộ máy nhà nước, mà trước hết là bộ máy hành chính nhà
nước.
-
Khoa học luật hành chính có mối quan hệ mật thiết với các ngành
khoa học xã hội cơ bản như: triết học, kinh tế chính trị, lý
luận nhà nước và pháp luật, khoa học luật hiến pháp...
-
Khoa học luật hành chính cũng có mối liên hệ mật thiết với
nhiều môn khoa học nghiên cứu về hoạt động nghiên cứu, đặc
biệt là khoa học quản lý. Sự phát triển của cả các ngành khoa
học này là yếu tố quan trọng góp phần và tăng cường hiệu
lực quản lý của nhà nước.
Ngoài
ra, khoa học luật hành chính cũng sử dụng hàng loạt phương pháp
cụ thể để nghiên cứu về những quan hệ xã hội về hành chính
như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh pháp luật, phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp điều
tra xã hội học, phương pháp thực nghiệm...
Nghiên
cứu luật hành chính và quản lý hành chính nhà nước trên cơ
sở đường lối, chính sách của Ðảng, học thuyết Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước "dân là gốc"
Thông
qua thực tiễn của hoạt động quản lý, bổ sung và rút kinh nghiêm.