QUY CHẾ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH
CỦA
CÁC TỔ CHỨC XÃ HÔI
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
_______________________________________________________________________________________________
I.
KHÁI NIỆM VÀ ÐẶC ÐIỂM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
1.
Khái niệm |
Tổ
chức xã hội là những bộ phận cấu thành của hệ thống chính
trị nước ta, được hình thành trên các nguyên tắc tự nguyện,
tự quản của người lao động được tổ chức và hoạt động
theo điều lệ hay theo các quy định của nhà nước, nhân danh tổ
chức mình khi tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên.
Hoạt
động quản lý nhà nước được tiến hành không chỉ bởi các cơ
quan nhà nước mà còn được hình thành bởi các tổ chức xã
hội và cá nhân. Là một bộ phận của hệ thống chính trị, các
tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Các tổ chức xã hội rất đa dạng về hình thức, tên gọi,
chủng loại như: Ðảng cộng Sản Việt Nam, Ðoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên
hiệp phụ nữ Việt nam, Trọng tài kinh tế, Hội nhà văn, Hội nhà
báo, Hội Luật gia...
Trong
đời sống xã hội, các tổ chức xã hội là chổ dựa của nhà nước
nhằm tuyên truyền, giáo dục quần chúng thực hiện các nhiệm
vụ quản lý. Các tổ chức xã hội có những đặc điểm phân
biệt với các cơ quan nhà nước.
Mỗi
tổ chức xã hội đều có những hoạt động mang tính chất đặc
thù, phản ánh vị trí, vai trò của nó trong hệ thống chính trị.
Tuy vậy, các tổ chức xã hội cũng có những đặc điểm chung
nhất định, đó là căn cứ để phân biệt các tổ chức xã hội
với các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế. Ðó là các đặc
điểm sau:
1.
Các tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện
của người lao động vì những
mục đích nhất định. Ðó là những tổ chức tập hợp những thành
viên của mình dựa vào những đặc điểm nghề nghiệp, độ
tuổi, giới tính ...
+
Yếu tố tự nguyện được thể hiện rõ nét trong việc nhân dân
được quyền tự do lựa chọn và quyết định tham gia hay không
tham gia vào một tổ chức xã hội nào đó. Không ai có quyền ép
buộc một người nào đó phải tham gia hay không được tham gia vào
các tổ chức xã hội nhất định. Tuy nhiên yếu tố tự nguyện
ở đây không đồng nghĩa với tự do vô tổ chức mà mỗi tổ
chức xã hội đều đặt ra những tiêu chuẩn nhất định đối
với người muốn trở thành thành viên của tổ chức xã hội đó.
+
Yếu tố tự nguyện được hiểu là việc kết nạp hay không khai
trừ các thành viên của tổ chức hoàn toàn do tổ chức xã hội và
những thành viên của tổ chức đó quyết định chứ nhà nước
không can thiệp cũng như không sử dụng quyền lực nhà nước để
chi phối hoạt động đó.
2.
Mỗi tổ chức xã hội là tập hợp những thành viên có cùng
chung một dấu hiệu, đặc điểm.
Họ liên kết lại với nhau để tìm tiếng nói chung và bảo vệ
những lợi ích chính đáng của họ.
Ví
dụ: Cùng chung một mục đích như Ðảng Cộng sản Việt Nam;
Cùng chung một giai cấp như Hội Nông dân Việt Nam;
Cùng chung một nghề nghiệp như Hội Luật Gia;
Cùng chung một giới tính như Hội Phụ nữ...
3.
Khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước các tổ
chức xã hội nhân danh tổ chức mình
chứ không phải nhân danh nhà nước. Chỉ trong một số trường
hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức xã hội mới
hoạt động nhân danh nhà nước. Quyết định của các tổ
chức xã hội chỉ có hiệu lực đối với các thành viên của mình,
không có hiệu lực đối với những người ngoài tổ chức đó,
trừ một số trường hợp do qui định của pháp luật.
4.
Các tổ chức xã hội có thể là chủ thể của quản lý nhà
nước nhưng không phải là chủ thể mặc nhiên.
+
Các tổ chức xã hội khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà
nước không được quyền nhân danh nhà nước nếu không được pháp
luật quy định vì tổ chức xã hội không phải là một thành
phần trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Nhà nước chỉ thừa nhận
và bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức xã hội bằng việc
quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các tổ chức xã
hội. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ này, các tổ chức xã
hội nhân danh tổ chức mình chứ không nhân danh nhà nước, không
sử dụng quyền lực nhà nước.
+
Tuy nhiên, trong một số trường hợp do pháp luật quy định, nhà nước
trao quyền cho các tổ chức xã hội, cho phép các tổ chức này
được thay mặt nhà nước quản lý một số công việc nhất định,
lúc này tổ chức xã hội mới được phép nhân danh nhà nước
sử dụng quyền lực nhà nước, các quyết định do tổ chức xã
hội đưa ra mới mang tính chất quyền lực nhà nước, có tính
chất bắt buộc đối với những đối tượng có liên quan.
Ví
dụ: tổ chức Công đoàn được nhà nước cho phép thực hiện
hoạt động kiểm
tra việc chấp hành pháp luật về bảo hộ lao động, hợp đồng
lao động, chế độ tuyển dụng, cho thôi việc, tiền lương...
5.
Các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo
điều lệ do các thành viên trong
tổ chức xây dựng nên hoặc theo các quy định của nhà nước.
+
Phần lớn các tổ chức xã hội đều có điều lệ hoạt động
như Ðảng Cộng sản Việt Nam, Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam...điều lệ đó được các thành viên trong tổ chức soạn
thảo, được nhà nước phê chuẩn, thừa nhận một cách chính
thức. Tuy nhiên, có một số tổ chức xã hội không có điều lệ
hoạt động riêng mà hoạt động theo quy định của nhà nước như
Ban thanh tra nhân dân, tổ hòa giải. Ngoài ra, có một số tổ
chức vừa hoạt động theo điều lệ, vừa hoạt động theo quy định
của pháp luật như tổ chức Công đoàn.
+
Cho dù tổ chức xã hội hoạt động theo điều lệ hay theo quy định
của nhà nước thì những hoạt động nội bộ của các tổ chức
xã hội vẫn mang tính chất tự quản. Nhà nước không trực tiếp
can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức này cũng như
không sử dụng quyền lực nhà nước để sắp xếp người lao động
hay cách chức người lao động trong tổ chức xã hội đó.
6.
Mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ chức xã hội là
mối quan hệ bình đẳng chứ không
phải là nguyên tắc " quyền lực - phục tùng" như trong các
cơ quan nhà nước.
+
Trong quá trình hoạt động, tổ chức xã hội tự xử lý và giải
quyết các công việc nội bộ của tổ chức mình. Nhà nước sẽ
không can thiệp vào nếu hoạt động của các tổ chức xã hội không
trái pháp luật.
+
Hoạt động của chúng trên nguyên tắc giáo dục thuyết phục và
các biện pháp tác động xã hội, chứ không mang tính cưỡng chế
nhà nước. Các tổ chức xã hội có thể áp dụng các biện pháp
kỷ luật như cảnh cáo, khiển trách, cách chức, khai trừ ra khỏi
tổ chức đối với những thành viên vi phạm điều lệ. Các tổ
chức xã hội không được quyền sử dụng quyền lực nhà nước
để truy cứu trách nhiệm kỷ luật đối với thành viên của tổ
chức mình.
7.
Các tổ chức xã hội hoạt động có mục đích chung là giáo
dục ý thức pháp luật cho các thành
viên để họ sống và làm việc theo pháp luật. Ðồng thời,
hoạt động của các tổ chức xã hội còn nhằm đến mục đích
là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên
trong tổ chức. Khi có những hành vi xâm hại tới quyền và lợi
ích hợp pháp của các thành viên trong tổ chức hay những người
lao động khác thì các tổ chức xã hội có thể tạo ra dư luận
xã hội rộng rãi để phản đối những hành vi vi phạm đó, đồng
thời yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khôi
phục lại những lợi ích mà các thành viên trong tổ chức hay người
lao động đã bị xâm hại.
Ngoài
ra, cũng có một số tổ chức xã hội được thành lập và hoạt
động nhằm thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa- xã hội của các
thành viên hoặc để tăng gia sản xuất. Các tổ chức xã hội cũng
có thể làm kinh tế từ những hoạt động văn hóa thể thao, kinh
doanh nhưng đây không phải là mục đích hoạt động chính của các
tổ chức này.
Theo
nguyên tắc hình thức tổ chức và hoạt động, các tổ chức xã
hội được chia thành các tổ chức chính trị xã hội, các tổ
chức tự quản, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ
chức quần chúng.
Ðây
là các tổ chức tự nguyện được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có hệ thống tổ chức từ trung
ương đến cơ sở. Các tổ chức xã hội này có điều lệ hoạt
động do hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu các thành
viên thông qua. Bao gồm các tổ chức như: Ðảng Cộng sản Việt
Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
a.
Ðảng Cộng sản Việt Nam
Là
một tổ chức xã hội hoạt động có mục đích chính trị, có cương
lĩnh, đường lối và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính
trị, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, là nhân
tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trước
đây ở nước ta tồn tại ba đảng phái chính trị là đảng dân
chủ, đảng xã hội và đảng lao động Việt Nam (nay là Ðảng
Cộng sản Việt Nam). Kể từ khi thành lập, Ðảng dân chủ và Ðảng
xã hội đã đóng vai trò quan trọng cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Tháng 10 năm 1988, Ðảng xã hội và Ðảng dân chủ
tự giải tán. Hiện nay, nước ta chỉ tồn tại một Ðảng chính
trị là Ðảng Cộng sản Việt Nam mà vai trò lãnh đạo của Ðảng
đối với nhà nước và xã hội đã được ghi nhận tại điều
4- Hiến pháp 1992.
Các
đường lối, chủ trương chính sách của Ðảng là kim chỉ nam cho
hoạt động nhà nước và xã hội. Nhiều chính sách của Ðảng
thể chế hoá thành pháp luật. Tuy lãnh đạo hệ thống chính
trị, nhưng Ðảng không can thiệp trực tiếp vào công việc nhà nước,
mà định ra phương hướng hoạt động và kiểm tra việc thực
hiện đường lối của mình trong bộ máy nhà nước. Mọi tổ
chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
b.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Mặt
trận tổ quốc Việt Nam được thành lập theo cơ chế bầu cử dân
chủ được phân cấp để hoạt động trong phạm vi toàn quốc.
Thành
viên của mặt trận tổ quốc Việt Nam gồm các tổ chức: Ðảng
Cộng sản Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ðoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông
dân Việt Nam. Các tổ chức này có cơ cấu hoàn chỉnh và đóng
vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Hoạt động của chúng
ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định quản lý nhà nước.
Mặt
trận tổ quốc Việt Nam được thành lập nhằm phát huy truyền
thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính
trị đối với nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân.
c.
Công đoàn
¨
Khái
niệm và các chức năng chính
Là
tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và người
lao động, đại diện bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của người lao động.
+
Có trách nhiệm tham gia với nhà nước phát triển sản xuất,
giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất tinh thần
của người lao động.
+
Thực hiện chức năng động viên người lao động thực hiện nghĩa
vụ công dân.
+
Kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ
chức trong việc thực hiện pháp luật về lao động, bảo hiểm xã
hội.
¨
Cơ
cấu tổ chức
Về
cơ cấu, công đoàn có tổ chức chặt chẽ và được phân cấp để
hoạt động trong phạm vi toàn quốc. Công đoàn được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh đạo
các cấp của công đoàn đều do bầu cử lập ra và cơ quan lãnh
đạo cao nhất của mỗi cấp là Ðại hội công đoàn cấp đó.
Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo là Ban chấp hành công
đoàn do đại hội bầu ra.
Công
đoàn Việt Nam tổ chức theo ngành nghề và địa phương gồm bốn
cấp cơ bản:
-
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam;
-
Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, công
đoàn ngành nghề toàn quốc;
-
Công đoàn ngành nghề địa phương, Liên đoàn lao động quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và cấp tương đương;
-
Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn.
d.
Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Là
tổ chức xã hội của thanh niên được hình thành nhằm thu hút
thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh,
qua đó giáo dục ý thức pháp luật đối với thanh niên.
Ðoàn
thanh niên cũng là nơi đào tạo ra các viên chức, cán bộ có
phẩm chất trong bộ máy nhà nước, hoặc giữ những chức vụ
trọng trách trong các tổ chức chính trị xã hội, ví dụ như Ðảng,
công đoàn.
Các
tổ chức của Ðoàn thanh niên hình thành trên phạm vi cả nước,
có mặt ở hầu hết tất cả các tổ chức, cơ quan, đơn vị từ
trung ương đến địa phương.
e.
Hội liên hiệp Phụ nữ
Là
tổ chức xã hội rộng lớn của giới nữ nhằm động viên thu hút
các tầng lớp phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội, tham
gia giải quyết các công việc của nhà nước. Mặt khác, Hội
phụ nữ còn là tổ chức đại diện cho tất cả các phụ nữ
Việt nam bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ,
chống phân biệt đối xử, bảo vệ quyền bình đẳng nam nữ.
g.
Hội liên hiệp nông dân Việt Nam
Là
một tổ chức đại diện của giai cấp nông dân Việt Nam, được
thành lập nhằm động viện, tổ chức nông dân lao động trong
cả nước hăng hái tham gia sản xuất, giáo dục tinh thần yêu nước.
Mặt khác, hội còn là tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của giai cấp nông dân Việt
Nam- một bộ phân dân cư lớn nhất ở nước ta.
Ngoài
ra, nước ta còn có các cơ quan xã hội được hình thành theo sáng
kiến của nhà nước và không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ,
hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của nhà nước.
Ví
dụ: Uỷ ban đoàn kết á-Phi, Uớy ban bảo vệ hoà bình thế giới
của Việt nam...
Là
loại hình tổ chức xã hội do nhà nước sáng kiến thành lập
được hình thành theo quy định của nhà nước. Hoạt động của
các tổ chức xã hội nghề nghiệp được đặt dưới sự quản lý
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, tổ chức xã
hội nghề nghiệp cũng là tổ chức hoạt động mang tính chất
tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ của từng tổ chức do tổ
chức đó quyết định hoạt động không mang tính quyền lực nhà
nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi hình thành tổ chức.
Tổ
chức xã hội nghề nghiệp bao gồm: Ðoàn Luật sư, Trọng tài kinh
tế,
a.
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
Trọng
tài kinh tế: Là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, các tranh chấp
giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái
phiếu, việc thành lập, giải thể công ty.
Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam: là một tổ chức xã hội nghề
nghiệp bao gồm các thành viên thuộc các thành phần kinh tế,
hoạt động theo điều lệ của tổ chức được chính phủ chuẩn
y, được quyền xét xử các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
mua bán ngoại thương đã được ký kết giữa tổ chức kinh tế
Việt Nam với phía nước ngoài bao gồm cả thể nhân và pháp nhân;
các tranh chấp trong lĩnh vực giao thông vận tải quốc tế như thuê
tàu, vận chuyển hàng hóa quốc tế, cứu hộ tàu biển... giữa
một bên hay các bên đương sự là người nước ngoài hoặc tổ
chức kinh doanh nước ngoài.
b.
Ðoàn Luật sư:
Là
hội nghề nghiệp của các luật sư được thành lập nhằm mục
đích tập hợp, hướng dẫn, giám sát và bênh vực quyền lợi cho
các luật sư, duy trì uy tín nghề nghiệp và nâng cao hiệu quả hành
nghề của các luật sư thành viên. Ðoàn luật sư có tư cách pháp
nhân, có tài khoản và con dấu riêng, hoạt động bằng kinh phí do
các luật sư đóng góp và bằng các nguồn thu hợp pháp khác.
c. Các tổ chức kinh tế tự nguyện: (theo tính chất sản
xuất)
Là
những tổ chức hình thành nhằm thu hút người lao động vào
việc giải quyết các nhiệm vụ sản xuất. Ðó là các hợp tác xã
nông, lâm, ngư nghiệp.
Là
các tổ chức của nhân dân lao động được thành lập theo sáng
kiến của nhà nước, hoạt động theo quy định của nhà nước. Các
tổ chức này được thành lập theo nguyên tắc tự quản trong
một phạm vi nhất định đối với các công việc mà nhà nước
không trực tiếp quản lý.
Các
tổ chức tự quản thường được thành lập theo chế độ bầu
cử dân chủ, không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, giữa các tổ
chức cùng loại không có mối quan hệ đoàn thể. Hoạt động
của tổ chức tự quản được đặt dưới sự quản lý trực
tiếp của các cơ quan nhà nước hữu quan.
Là
các tổ chức xã hội được thành lập theo những dấu hiệu
nghề nghiệp, sở thích hoặc các dấu hiệu khác như: kinh tế, văn
hoá, khoa học-kỹ thuật, thể thao và quốc phòng.
Các
tổ chức xã hội loại này rất đa dạng, phong phú, có số lượng
nhiều nhất so với các tổ chức xã hội khác. ở nước ta, số lượng
các hội quần chúng đang có xu hướng phát triển, hiện nay có
khoảng 120 hội quần chúng hoạt động trên phạm vi cả nước,
khoảng 300 hội hoạt động ở các tỉnh, thành phố, địa phương.
Ðiều
lệ hoạt động của hội quần chúng do các tổ chức dự thảo và
quyết định, khi đăng ký thành lập hội phải báo cáo điều lệ
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập để các
cơ quan này chuẩn y.
III. SỰ ÐIỀU
CHỈNH PHÁP LUẬT ÐỐI VỚI HOẠT ÐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ
HỘI |
Ðịa vị pháp lý của các tổ chức xã hội được quy định
trong Hiến pháp, các luật, những văn bản dưới luật. Những
vấn đề cơ bản được pháp luật điều chỉnh gồm lập hội,
mối quan hệ giữa Ðảng và Nhà nước, giữa các tổ chức xã
hội và Nhà nước, trình tự giải thể hoạt động của các tổ
chức xã hội, các hình thức khen thưởng... Nhưng pháp luật không
điều chỉnh mọi hoạt động của các tổ chức xã hội.
Việc lập hội được tiến hành theo trình tự :
-
Những
hội quần chúng hoạt động trên phạm vi cả nước phải được
Thủ tướng Chính phủ cấp giấy phép.
-
Những
hội quần chúng hoạt động ở Tỉnh, Thành phố và cấp tương
đương do Chủ tịch Tỉnh, Thành phố và cấp tương đương cấp
giấy phép và phải báo cho Thủ tướng Chính phủ biết.
-
Những
tổ chức quần chúng hoạt động có tính chất tương thế, phúc
lợi ở xã, phường, thôn, ấp như hội bảo thọ, hội bảo trợ
học đường do Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường cho phép, nhưng
phải báo cáo cho Chủ tịch huyện, quận biết.
Các tổ chức xã hội tự thảo và quyết định điều lệ
hoạt động của mình. Song khi đăng ký lập hội phải báo cáo điều
lệ với cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền xét và cho phép
hoạt động. Nếu sửa lại điều lệ cũng phải báo cáo cơ quan
Nhà nước đã cho phép thành lập. Nguyên tắc này được áp dụng
đối với các hội tổ chức quần chúng theo tính chất nghề
nghiệp, không áp dụng đối với tổ chức xã hội là thành viên
của ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Những hoạt động tổ chức nội bộ như bầu cử ban lãnh
đạo, chi phí tài chính, phát động các phong trào thi đua, sắp
xếp cơ cấu do các tổ chức xã hội quyết định theo quy định
của điều lệ hoặc quyết định của Ðại hội đại biểu.
Các tổ chức xã hội có thể chấm dứt hoạt động khi có
các cơ sở sau :
Thứ nhất: Ðã hoàn thành sứ mệnh lịch sử và tuyên bố
tự giải thể. Pháp luật qui định sau khi tuyên bố tự giải
thể, chậm nhất một tháng phải nộp lên cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cấp giấy phép toàn bộ hồ sơ, con dấu, tài liệu
thanh quyết toán tài sản chuyển giao theo hướng dẫn của cơ quan
tài chính Nhà nước.
Thứ hai: Hoạt động của tổ chức đó vi phạm pháp luật,
vi phạm điều lệ, uy tín của tổ chức đó một cách nghiêm
trọng. Trong ba trường hợp nêu trên, cơ quan có thẩm quyền cho pháp
hoạt động có thể thu hồi giấy phép hoạt động.
Thứ ba: Tổ chức xã hội tự ý không hoạt động mà không
có lý do chính đáng. Trong trường hợp này, cơ quan Nhà nước
cấp giấy phép hoạt động ra quyết định giải thể tổ chức đó.
Quyền hạn và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội không
giống nhau. Nó thể hiện ở chỗ một số tổ chức xã hội được
quyền trình dự án luật (đó là những thành viên của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam), hoặc được mời tham dự các phiên họp của
Chính phủ, hoặc của các cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương.
Nhưng ngược lại, một số hội quần chúng không có khả năng đó.
Pháp luật quy định quyền hạn không có khả năng đó. Phát luật
qui định quyền hạn khá rộng rãi cho các tổ chức công đoàn
trong việc giải quyết các tranh chấp lao động, bảo hiểm xã
hội, trợ cấp xã hội, bảo vệ các quyền, tự do, hợp pháp
của công dân. Năng lực pháp lý - hành chính của tổ chức công
đoàn được thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất trong Luật Công
Ðoàn (thông qua ngày 30/06/1990).
Trong mối quan hệ giữa Ðảng và Nhà nước đặc trưng là
quan hệ lãnh đạo. Ðường lối của Ðảng được thể chế thành
pháp luật, các cơ quan Ðảng cao nhất lựa chọn người vào các
chức vụ chủ chốt của Nhà nước. Kiểm tra hoạt động của các
cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện đường lối của mình.
Các tổ chức xã hội không chỉ khác nhau về năng lực pháp
lý - hành chính, mà còn khác nhau ở các sự tác động của Nhà nước
đối với chúng. Nhà nước không trực tiếp lãnh đạo, can thiệp
vào các đoàn thể xã hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam mà chỉ quy định những quyền hạn, nghĩa vụ pháp lý.
Ðối với cơ quan xã hội (Hội bảo vệ hoà bình thế giới, Hội
đoàn kết á Phi...), cử cán bộ lãnh đạo Nhà nước sang chuyên
trách hoặc bán chuyên trách
ở các tổ chức xã hội, định hướng hoạt động và chỉ đạo
các hoạt động cụ thể tùy theo tình hình xã hội.
Sự điều chỉnh pháp lý đối với hoạt động của các
tổ chức xã hội không giới hạn ở việc quy định các quyền và
nghĩa vụ, mà còn tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội phát
huy được tính tích cực chính trị tham gia vào mọi lĩnh vực đời
sống xã hội.
Nhà nước quy định trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước,
người có chức vụ (trách nhiệm kỷ luật, hành chính, hình sự)
nếu có những biện pháp, hành vi cản trở các tổ chức xã hội
và nhân viên các tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ theo điều
lệ của họ.
Ðối với những hội quần chúng ở các địa phương, các cơ
quan Nhà nước có nhiệm vụ tạo điều kiện để các hội đó
nắm được chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước
phối hợp cùng với hội động viên các hội viên hăng hái thực
hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật và thu thập ý kiến
hội đóng góp với cơ quan Nhà nước trong quá trình xây dựng và
thực hiện chính sách, nhiệm vụ công tác của ngành và địa phương.
IV. NHỮNG HÌNH
THỨC QUAN HỆ GIỮA CÁC TỔ CHỨC XÃ VÀ CÁC CƠ QUAN NHÀ
NƯỚC.
Ðặc trưng cơ bản của mối quan hệ tương hỗ giữa các
tổ chức xã hội và các cơ quan Nhà nước là sự hợp tác. Ðiều
này xuất phát từ sự thống nhất mục đích là xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nâng cao tính tích cực xã hội của công dân, bảo
vệ các quyền, tự do cơ bản của công dân. Dưới đây là những
hình thức hợp tác cụ thể.
1. Sự hợp tác phát sinh trong quá trình thiết lập các cơ quan
Nhà nước : |
Ðảng Cộng Sản Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc
đề cử các đảng viên ưu tú vào các chức vụ quan trọng của
bộ máy quản lý Nhà nước.
Các tổ chức xã hội như Công đoàn, Ðoàn thanh niên cũng có
quyền giới thiệu thành viên của mình ứng cử các chức vụ
trong bộ máy Nhà nước. Ðồng thời, trên thực tế việc bổ
nhiệm, nâng bậc lương, thăng chức, cần có ý kiến của các tổ
chức xã hội trước khi thủ trưởng đơn vị ra quyết định.
Cùng với quá trình dân chủ hóa xã hội, vai trò của các
tổ chức xã hội trong việc thiết lập cơ quan Nhà nước ngày càng
cao, sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn, không chỉ bao gồm đưa
các thành viên của tổ chức xã hội vào cơ quan Nhà nước mà
cả sự đánh giá, góp ý kiến hay đề nghị xử lý các cán bộ
Nhà nước vi phạm pháp luật, cản trở hoạt động của các tổ
chức xã hội.
2. Sự hợp tác phát sinh trong quá trình xây dựng pháp luật : |
Thực tế quản lý Nhà nước đã áp dụng các hình thức ra
văn bản pháp luật liên tịch giưa cơ quan quản lý Nhà nước
với cơ quan Ðảng, với tổ chức công đoàn liên quan đến bảo
vệ lợi ích của người lao động. Các cơ quan lãnh đạo của các
tổ chức xã hội cũng tham gia trực tiếp vào việc dự thảo các
quyết định quản lý, văn bản pháp luật. Trong nhiều trường
hợp, chính sách các tổ
chức xã hội chủ động đưa ra những kiến nghị đối với các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành những quyết định,
nghị định, và những văn bản khác của Chính phủ.
Ðối với những quyết định quản lý Nhà nước liên quan
đến lợi ích và hoạt động của tổ chức xã hội thì cần
phải tham khảo ý kiến của các tổ chức xã hội. Ví dụ : Công
đoàn tham gia với cơ quan Nhà nước xây dựng pháp luật, chính sách,
chế độ vì lao động, tiền lương, bảo hộ lao động và các chính
sách xã hội khác liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và
lợi ích của người lao động (phần 2 điều 5 Luật Công đoàn).
Pháp luật, nước ta quy định nhiều tổ chức xã hội có
quyền trình dự án luật.
Song song với điều này các tổ chức đó có thể đưa ra
dự thảo của mình và tham gia tích cực vào quá trình thảo luận
các dự án luật, các dự án văn bản khác.
3. Sự hợp tác
trong lĩnh vực thực hiện pháp luật :
Trên thực tế, các cơ quan quản lý Nhà nước thu hút các
tổ chức xã hội để thảo luận và tìm ra các biện pháp tối ưu
trong việc giải quyết các nhiệm vụ quản lý cũng như thi hành pháp
luật. Các tổ chức xã hội như Công đoàn và Ðoàn thanh niên đóng
vai trò to lớn trong việc phát động các phong trào quần chúng, tuyên
truyền trong nội bộ tổ chức đường lối, pháp luật của Nhà nước,
tổ chức các buổi dạ hội, hội thảo, trao đổi khoa học về
sinh đẻ có kế hoạch, bảo vệ môi trường và các biện pháp
nhằm thiết lập trật tự, kỷ luật. Trong các bộ, ngành luôn luôn
có sự hợp tác thường xuyên giữa thủ trưởng đơn vị với lãnh
đạo các tổ chức xã hội để tìm ra các biện pháp thực hiện
tốt các quyết định quản lý, pháp luật của Nhà nước. Các
tổ chức xã hội trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam được tham
dự các kỳ họp của Chính phủ khi cần thiết.
4. Quan hệ kiểm tra lẫn nhau, mối quan hệ này thể hiện ở
hai chiều : |
-
Các
tổ chức xã hội kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
-
Các
cơ quan Nhà nước kiểm tra sự hợp pháp trong việc thành lập,
hoạt động của các tổ chức xã hội.
Trong các quan hệ kiểm tra, các cơ quan Ðảng có vai trò quan
trọng trong kiểm tra việc thực hiện đường lối của Ðảng
trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước cũng như kiểm tra các
Ðảng viên làm việc trong các cơ quan đó.
Vai trò của công đoàn trong việc kiểm tra hoạt động của
các cơ quan Nhà nước được thể hiện trong các lĩnh vực bảo
hiểm lao động, bảo vệ các quyền lao động của công nhân, viên
chức, tính hợp pháp trong việc xử lý kỷ luật công nhân, phân
hối nhà ở, quỹ phúc lợi. Ðặc biệt, các tổ chức công đoàn
có quyền yêu cầu những cơ quan Nhà nước và người có chức
vụ tạm ngừng hoạt động không an toàn lao động nếu trong quá
trình kiểm tra xét thấy nguy hiểm cho tính mạng công nhân.
Các tổ chức xã hội khác cũng thực hiện kiểm tra hoạt động
của các cơ quan Nhà nước trong phạm vi liên quan đến tổ chức mình.
Ví dụ: Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam kiểm tra chế độ, chính
sách đối với phụ nữ trong các xí nghiệp, cơ sở, trường học
và đưa ra kiến nghị với thủ trưởng đơn vị.
Các tổ chức thanh tra nhân dân ở cơ sở có vị trí đặc
biệt quan trọng trong kiểm tra việc thực hiện pháp luật của
những người có chức vụ và nhân viên Nhà nước, chống các
biểu hiện quan liêu, hống hách, cửa quyền. Các tổ chức này cùng
với Thanh tra Nhà nước giải quyết các đơn khiếu nại, tố cáo
của công dân.
Trong một số trường hợp, các cơ quan Nhà nước cùng với
tổ chức xã hội tiến hành kiểm tra hoạt động của cơ quan Nhà
nước. Ðiều này giúp cho các cơ quan Nhà nước khắc phục ngay
những thiếu sót của mình, góp phần làm trong sạch, lành mạnh hóa
bộ máy Nhà nước.
Các cơ quan Nhà nước cũng kiểm tra tính hợp pháp trong
hoạt động của các tổ chức xã hội. Theo pháp luật, cơ quan nào
có thẩm quyền cho phép tổ chức xã hội hoạt động thì kiểm
tra tính hợp pháp của chúng. Song, không can thiệp vào công việc
nội bộ của các tổ chức xã hội.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội với các cơ
quan quản lý Nhà nước còn thể hiện ở chỗ.
-
Những
người đứng đầu có các đoàn thể nhân dân được mời dự các
phiên họp của các cơ quan Nhà nước khi bàn các vấn đề có liên
quan.
-
Các
cơ quan Nhà nước có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi để
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tổ
chức, động viên nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân, tổ chức, thực hiện chủ trương, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước,
đại biểu dân cử, cán bộ và viên chức Nhà nước.
-
Các
cơ quan Nhà nước thông báo tình hình mọi mặt của cả nước,
hay địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể, có trách nhiệm giải quyết và trả lời các kiến nghị
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Như vậy, sự phối hợp của các cơ quan Nhà nước với các
tổ chức xã hội rất đa dạng, phong phú. Phát huy tốt các mối
quan hệ giữa chúng sẽ tạo ra động lực thúc đẩy quá trình dân
chủ hóa xã hội, dân chủ hóa trong quản lý Nhà nước.
V. QUYỀN VÀ NGHĨA
VỤ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC |
Tổng
thể các quyền và nghĩa vụ do nhà nước quy định cho các tổ
chức xã hội trong quản lý hành chính nhà nước tạo thành quy
chế pháp lý hành chính của các tổ chức xã hội.
Quyền
và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội được nhà nước quy định
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như hiến pháp, luật công
đoàn, pháp lệnh tổ chức luật sư, pháp lệnh thanh tra... các
quyền và nghĩa vụ này phát sinh bên ngoài tổ chức, xác định địa
vị pháp lý cũng như năng lực chủ thể để các tổ chức xã
hội tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Những
quyền và nghĩa vụ được quy định trong quy chế pháp lý hành chính
của chúng là những quyền và nghĩa vụ mang tính pháp lý khác
với các quyền và nghĩa vụ được quy định trong điều lệ của
tổ chức xã hội.
Các
tổ chức xã hội khác nhau thì có quy chế pháp lý hành chính khác
nhau. Sự khác biệt về quy chế pháp lý hành chính của các tổ
chức xã hội bắt nguồn từ sự khác biệt về vị trí vai trò và
phạm vi hoạt động của các tổ chức xã hội. Tuy vậy, các tổ
chức xã hội (các tổ chức tự nguyện) đều có những quyền và
nghĩa vụ sau:
-
Tham gia vào việc dự thảo các dự án pháp luật về các vấn đề
có liên quan tới tổ chức mình trước khi trình cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thông qua, ban hành.
-
Phối hợp với các cơ quan nhà nước trong việc soạn thảo và ban
hành các văn bản chung có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
các thành viên trong tổ chức.
-
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với các thành viên trong
tổ chức và đối với nhân dân lao động.
-
Tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và công dân,
người nước ngoài, người không quốc tịch.
-
Ðại diện cho đoàn viên, hội viên tham gia với cơ quan nhà nước
trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và
lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên.
--------------------------------------------
CÂU HỎI
1.
Thế nào là tổ chức xã hội? Thông qua các đặc điểm của tổ
chức xã hội, hãy phân biệt chúng với cơ quan nhà nước?
2.
Hãy phân loại các tổ chức xã hội ở nước ta? Theo anh (chị),
loại tổ chức xã hội nào nằm trong cơ cấu quyền lực chính
trị?
3.
Nêu các quan hệ giữa tổ chức xã hội và cơ quan nhà nước?